Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giao Châu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
'''Giao Châu''' ([[chữ Hán]]: 交州) là tên một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm vùng đất [[miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc Việt Nam]] ngày nay. Ban đầu Giao Châu còn bao gồm một phần đất [[Quảng Tây]] và [[Quảng Đông]] thuộc [[Trung Quốc]] ngày nay.
 
==ChâuNhà GiaoĐông Hán==
[[Tập tin:GiaoTam Châu-189Quoc SCN208.pngjpg|nhỏ|phải306x306px|Bản đồ Giao Châu (màu trắng)cuối thời [[Đông Hán]] (208).]]
Năm 203, Giao Châu được [[Hán Hiến Đế|vua Hiến Đế]] [[nhà Hán|nhà Đông Hán]] đổi tên từ bộ Giao Chỉ trên cơ sở đề nghị của [[Sĩ Tiếp|Sĩ Nhiếp]], thái thú quận Giao Chỉ và Trương Tân, thứ sử bộ Giao Chỉ.
Năm 203, Giao Châu được [[Hán Hiến Đế|vua Hiến Đế]] [[nhà Hán|nhà Đông Hán]] đổi tên từ bộ Giao Chỉ trên cơ sở đề nghị của [[Sĩ Tiếp|Sĩ Nhiếp]], thái thú quận Giao Chỉ và Trương Tân, thứ sử bộ Giao Chỉ. Khi đó Giao Châu là một cấp hành chính (châu), gồm 9 quận là: Giao Chỉ, [[Cửu Chân]], [[Nhật Nam]], [[Đam Nhĩ]], [[Châu Nhai]] ([[Đam Nhĩ]] và [[Châu Nhai]] nay thuộc đảo [[Hải Nam]]), [[Biển Đông|Nam Hải]], [[Hợp Phố]], [[Uất Lâm]], Thương Ngô (nay thuộc [[Quảng Tây]] và [[Quảng Đông]]). Trị sở ban đầu đặt tại huyện [[Liên Lâu]] rồi dời sang huyện [[Quảng Tín (huyện)|Quảng Tín]] (thành phố [[Ngô Châu]] thuộc [[Quảng Tây]] ngày nay), sau chuyển về [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]] (thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]] thuộc tỉnh [[Quảng Đông]] ngày nay).<ref>''[[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]]'', Tiền biên, Quyển 2, chép: "Lại còn việc: khi nhà Hán đặt bộ Giao Chỉ, lỵ sở ở Liên Thụ (tức Luy Lâu), năm Nguyên Phong thứ 5 (106 TCN) dời trị sở sang huyện Quảng Tín ở quận Thương Ngô. Đến năm Kiến An thứ 15 (210 SCN), đóng lỵ sở ở huyện Phiên Ngung. Nhà Ngô lại dời lỵ sở sang Long Biên (tức Long Uyên), còn ở lỵ sở cũ (chỉ Phiên Ngung) đặt làm Quảng Châu."</ref>
 
Năm 203, Giao Châu được [[Hán Hiến Đế|vua Hiến Đế]] [[nhà Hán|nhà Đông Hán]] đổi tên từ bộ Giao Chỉ trên cơ sở đề nghị của [[Sĩ Tiếp|Sĩ Nhiếp]], thái thú quận Giao Chỉ và Trương Tân, thứ sử bộ Giao Chỉ. Khi đó Giao Châu là một cấp hành chính (châu), gồm 9 quận là: Giao Chỉ, [[Cửu Chân]], [[Nhật Nam]], [[Đam Nhĩ]], [[Châu Nhai]] ([[Đam Nhĩ]] và [[Châu Nhai]] nay thuộc đảo [[Hải Nam]]), [[Biển Đông|Nam Hải]], [[Hợp Phố]], [[Uất Lâm]], Thương Ngô (nay thuộc [[Quảng Tây]] và [[Quảng Đông]]). Trị sở ban đầu đặt tại huyện [[Liên Lâu]] rồi dời sang huyện [[Quảng Tín (huyện)|Quảng Tín]] (thành phố [[Ngô Châu]] thuộc [[Quảng Tây]] ngày nay), sau chuyển về [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]] (thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]] thuộc tỉnh [[Quảng Đông]] ngày nay).<ref>''[[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]]'', Tiền biên, Quyển 2, chép: "Lại còn việc: khi nhà Hán đặt bộ Giao Chỉ, lỵ sở ở Liên Thụ (tức Luy Lâu), năm Nguyên Phong thứ 5 (106 TCN) dời trị sở sang huyện Quảng Tín ở quận Thương Ngô. Đến năm Kiến An thứ 15 (210 SCN), đóng lỵ sở ở huyện Phiên Ngung. Nhà Ngô lại dời lỵ sở sang Long Biên (tức Long Uyên), còn ở lỵ sở cũ (chỉ Phiên Ngung) đặt làm Quảng Châu."</ref>
Thời Hán mạt và [[Tam Quốc]], nhân dân Giao Chỉ đã nhiều lần nổi lên giết chết các thứ sử Giao Châu là Chu Phù rồi Trương Tân. Sau đó nhà Hán đã phong cho thái thú quận Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp làm Tuy Nam Trung lang tướng, tổng đốc 7 quận.
 
Thời Hán mạt và [[Tam Quốc]], nhân dân Giao Chỉ đã nhiều lần nổi lên giết chết các thứ sử Giao Châu là Chu Phù rồi Trương Tân. Sau đó [[nhà Hán]] đã phong cho thái thú quận Giao Chỉ là [[Sĩ Nhiếp]] làm Tuy Nam Trung lang tướng, tổng đốc 7 quận.[[Tập tin:交州264.jpg|nhỏ|300px|phải|Bản đồ Giao Châu (màu xanh) và [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] (màu vàng) năm 264, thời [[Đông Ngô]]]]
Năm 210, [[Tôn Quyền]] nước [[Đông Ngô]] sai [[Bộ Chất]] sang làm thứ sử Giao Châu thì Sĩ Nhiếp tuân phục.
[[Tập tin:三國264.jpg|nhỏ|302x302px|Bảm đồ Tam quốc năm 264. Giao Châu từ năm 263 do [[Lã Hưng]] chiếm giữ.]]
 
==Tam Quốc==
==Chia tách Giao Châu==
Năm 210, [[Tôn Quyền]] sau khi lập nước [[Đông Ngô]], sai quan là [[Bộ Chất]] sang làm thứ sử Giao Châu, Thái thú Sĩ Nhiếp tuân phục nhà Ngô, giữ chức Tả tướng quân<ref name=":0">{{Chú thích web|url=http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt03.html|title=Đại Việt sử ký toàn thư, tập 4.}}</ref>.
Sau khi Sĩ Nhiếp chết, năm 226, [[Đông Ngô]] đã chia Giao Châu ra làm hai châu: [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô và Giao Châu (mới) gồm các quận [[Hợp Phố]], [[Giao Chỉ]], [[Cửu Chân]], [[Nhật Nam]]<ref name=TT15>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/%E5%8D%B7015 Tấn thư, quyển 15: Địa lý chí hạ]</ref> và cử Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú quận Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ quận Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu (mới) là Đái Lương và thứ sử [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] là Lữ Đại cùng hợp binh tiến đánh và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Khi đó Đông Ngô lại sáp nhập [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] với Giao Châu như cũ, phong [[Lữ Đại]] làm thứ sử Giao Châu, và đến năm 264 mới chia lại thành [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] (trị sở tại [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]], nay là thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]]) và Giao Châu (trị sở tại [[Long Biên (huyện)|Long Uyên]], nay thuộc huyện [[Gia Lâm]], [[Hà Nội]]). Giao Châu mới gồm có 7 quận: là 4 quận cũ: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 3 quận mới: [[Tân Xương, Giao Châu|Tân Xương]], [[Vũ Bình, Giao Châu|Vũ Bình]] và [[Xứ Nghệ|Cửu Đức]]<ref name=TT15 />, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và [[bán đảo Lôi Châu]] thuộc tỉnh Quảng Đông) ngày nay (ba quận mới được thành lập thời [[Tôn Hạo]]<ref name=TT15 /> và giữ nguyên đến thời [[nhà Tấn]]).
[[Tập tin:交州264.jpg|nhỏ|300px|phải|Bản đồ Giao Châu (màu xanh) và [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] (màu vàng) năm 264, thời [[Đông Ngô]]]]
 
Sau khi Sĩ Nhiếp chết, năm (226), [[Đông Ngô]] đã chia Giao Châu ra làm hai châu: [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô cho [[Lã Đại|Lữ Đại]] (Lã Đại) làm Thứ sử và Giao Châu (mới) gồm các quận [[Hợp Phố]], [[Giao Chỉ]], [[Cửu Chân]], [[Nhật Nam]]<ref name="TT15">[http://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/%E5%8D%B7015 Tấn thư, quyển 15: Địa lý chí hạ]</ref> cho cửĐái Lương làm Thứ sử. Trần Thì làm Thái thú Giao Châu thay Sĩ Nhiếp<ref name=":0" />. Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú quận Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ quận Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu (mới) là Đái Lương và thứ sử [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] là [[Lã Đại|Lữ Đại]] cùng hợp binh tiến đánh, dụ hàng và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. KhiSau đó Đông Ngô lại sáp nhập [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] với Giao Châu như cũ, phong [[Lữ Đại]] làm thứ sử Giao Châu, và đến<ref>Đến năm 264 mới chia lại thành [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] (trị sở tại [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]], nay là thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]]) và Giao Châu (trị sở tại [[Long Biên (huyện)|Long Uyên]], nay thuộc huyện [[Gia Lâm]], [[Hà Nội]])</ref>, phong [[Lữ Đại]] làm thứ sử Giao Châu. Lữ Đại tiến quân đến quận Cửu Chân tàn sát hàng vạn người. Giao Châu mới gồm có 7 quận: là 4 quận cũ: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 3 quận mới: [[Tân Xương, Giao Châu|Tân Xương]], [[Vũ Bình, Giao Châu|Vũ Bình]] và [[Xứ Nghệ|Cửu Đức]]<ref name="TT15" />, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và [[bán đảo Lôi Châu]] thuộc tỉnh Quảng Đông) ngày nay (ba quận mới được thành lập thời [[Tôn Hạo]]<ref name="TT15" /> và giữ nguyên đến thời [[nhà Tấn]]).
Năm 248, thứ sử Giao Châu [[Lục Dận]] (Đông Ngô) đã đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của [[Bà Triệu|Triệu Thị Trinh]] (tức Bà Triệu).
 
Năm 248, cuộc khởi nghĩa của [[Bà Triệu|Triệu Thị Trinh]] (tức Bà Triệu) bị thứ sử Giao Châu là [[Lục Dận]] ([[Đông Ngô]] - cháu [[Lục Tốn]]) dập tắt.
[[Nhà Tấn]] cướp ngôi nhà [[Tào Ngụy|Ngụy]], cử Dương Tắc làm thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú Cửu Chân. Đào Hoàng, bề tôi của Đông Ngô đánh chiếm được Giao Chỉ và Cửu Chân, được làm thứ sử Giao Châu, sau này Tôn Hạo phong cho làm Giao Châu mục. Sau khi Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn thì Đào Hoàng hàng phục nhà Tấn và được giữ nguyên chức cũ.
 
Thái thú [[Tôn Tư]] (孫諝) cai trị Giao Châu tàn ác, dân chúng quận Giao Chỉ và Nhật Nam nổi dậy. Vua Đông Ngô là [[Tôn Hưu]] sai Đặng Tuân sang làm sát chiến để giám sát Tôn Tư nhưng cả hai lại cùng hợp tác vơ vét của cải nhân dân. Năm 263, [[Lã Hưng]] (Lữ Hưng - Lü Xing), viên quan ở quận Giao Chỉ, cùng hào kiệt nổi dậy giết chết Tư và Tuân, mang quận Giao Chỉ về hàng [[Tào Ngụy]] dù lúc đó bị ngăn cách về địa lý. Đến năm 264, trước hành động của Lã Hưng kèm theo nguy cơ mất cả Giao Châu, Ngô Cảnh Đế [[Tôn Hưu]] vội chia tách Giao châu thành hai châu [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] (trị sở tại [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]], nay là thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]]) và Giao Châu (trị sở tại [[Long Biên (huyện)|Long Uyên]], nay thuộc huyện [[Gia Lâm]], [[Hà Nội]]). Giao châu mới chỉ gồm 4 quận còn lại phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
 
Cuối năm 263, [[Tào Ngụy]] tiến hành [[Chiến tranh Thục-Ngụy (263-264)|chiến dịch tiêu diệt Thục Hán]] thành công. Năm 264, quyền thần nhà Ngụy là [[Tư Mã Chiêu]] nhân danh Ngụy Nguyên Đế [[Tào Ngụy Nguyên Đế|Tào Hoán]] phong cho Lã Hưng làm An Nam tướng quân, coi việc binh ở Giao châu và sai [[Hoắc Dặc]] (tướng cũ [[Thục Hán]]) làm Thứ sử Giao châu (nhưng vẫn đống ở Nam Trung (Vân Nam hoặc Quế Lâm), không trực tiếp sang Giao Châu). Cuối năm 264, Lã Hưng bị thủ hạ là công tào Lý Thống giết chết.
 
Năm 265, [[Nhà Tấn]] cướp ngôi nhà [[Tào Ngụy|Ngụy]], cử Dương Tắc làm thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú Cửu Chân.
 
Từ đây, Gia Châu thuộc quyền nước Tấn. Nước Đông Ngô tiến hành [[Chiến dịch Giao-Quảng|chiến tranh với Tấn]] để tranh giành Giao Châu và Quảng Châu, gọi là [[Chiến dịch Giao-Quảng|Giao Quảng chi loạn]].
 
[[Nhà Tấn]] cướp ngôi nhà [[Tào Ngụy|Ngụy]], cử Dương Tắc làm thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú Cửu Chân. Đào Hoàng, bề tôi của Đông Ngô đánh chiếm được Giao Chỉ và Cửu Chân, được làm thứ sử Giao Châu,. Giao Châu lại thuộc Đông Ngô nhưng sauvẫn chia riêng với Quảng Châu. Sau này [[Tôn Hạo]] phong cho Đào Hoàng làm Giao Châu mục. Sau khi Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn ([[280]]) thì Đào Hoàng hàng phục nhà Tấn và được giữ nguyên chức cũ.
 
Năm 353, thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu (nhà [[Nhà Tấn|Đông Tấn]]) đánh vua [[Lâm Ấp]] do nước này hay ra cướp phá hai quận Nhật Nam và Cửu Chân. Năm 413, vua [[Lâm Ấp]] là Phạm Hồ Đạt lại ra cướp phá Cửu Chân, bị thứ sử Đỗ Tuệ Độ đuổi đánh, chém được tướng Lâm Ấp bắt sống hơn 100 người.
Hàng 23 ⟶ 33:
 
[[Tập tin:南朝齐交州地图.jpg|nhỏ|trái|Cương vực Giao Châu năm 497, thời [[Nam Tề]]]]
Thời [[Nam Tề]] (479-502), Giao Châu gồm 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Vũ Bình, Tân Xương, Cửu Đức, Nhật Nam, Tống Bình, Nghĩa Xương, Tống Thọ (năm 480 cắt về Việt Châu)<ref name=NTthu15>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%8D%97%E9%BD%8A%E6%9B%B8/%E5%8D%B714 Nam Tề thư, quyển 14: Chí đệ 7, châu quận thượng]</ref>. Khi [[Lý Nam Đế|Lý Bí]] nổi lên đánh đuổi thứ sử Tiêu Tư tàn ác, thì vua [[nhà Lương]] cử Dương Phiêu sang làm thứ sử Giao Châu, và sai [[Trần Bá Tiên]] đem quân đánh Lý Bí.
Khi [[Lý Nam Đế|Lý Bí]] nổi lên đánh đuổi thứ sử Tiêu Tư tàn ác, thì vua [[nhà Lương]] cử Dương Phiêu sang làm thứ sử Giao Châu, và sai [[Trần Bá Tiên]] đem quân đánh Lý Bí.
 
==Phủ Giao Châu nhà Đường==
Năm Vũ Đức thứ 5 ([[622]]), [[nhà Đường]] sau khi lên thay [[nhà Tùy]], đã đặt ra tổng quản phủ Giao Châu (''Giao Châu tổng quản phủ''), quản lãnh 10 châu: Giao Châu, Phong Châu, Ái Châu, Tiên Châu, Diên Châu, Tống Châu, Từ Châu, Hiểm Châu, Đạo Châu, Long Châu<ref name=CDT41>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E8%88%8A%E5%94%90%E6%9B%B8/%E5%8D%B741 Cựu Đường thư, quyển 41: Chí đệ 21, địa lý 4]</ref>, bao trùm miền Bắc Việt Nam. Quan đứng đầu phủ Giao Châu là đại tổng quản Khâu Hòa, vốn là thái thú Giao Chỉ.