Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chocolate (bài hát của Kylie Minogue)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:24.6140000
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 23:
}}
 
"'''Chocolate'''" là bài hát của nữ nghệ sĩ thu âm người Úc [[Kylie Minogue]], trích từ album phòng thu thứ 9 ''[[Body Language (album của Kylie Minogue)|Body Language]]'' (2003). Do chính nhà sản xuất Johnny Douglas sáng tác cùng [[Karen Poole]], đây là một bản ballad sử dụng hình ảnh [[chocolate]] để so sánh với nỗi ám ảnh của Minogue trong tình yêu. Bài hát có chứa các yếu tố nhạc [[disco]] và [[funk]] cùng chất giọng thì thầm và mang tiếng thở. "Chocolate" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ 3 và là đĩa đơn cuối trích từ album vào ngày 28 tháng 6 năm 2004 bởi hãng thu âm [[Parlophone]].
 
Các đánh giá đến "Chocolate" trải dài từ tích cực đến trung lập; một vài nhà phê bình yêu thích tính thương mại và chất giọng của Minogue trong bài hát, trong khi một số lại phê bình tính lỗi thời của nó. Tại Úc, bài hát không thể đạt đến top 10 mà chỉ vươn đến vị trí thứ 14. Bài hát đạt thành công hơn tại Anh Quốc, khi trở thành bài hát ăn khách đạt top 10 thứ 27 của cô tại [[UK Singles Chart]]. Đĩa đơn này còn được xếp hạng trong top 20 tại Hungary và Ý.
 
Một video âm nhạc cho "Chocolate" được đạo diễn bởi [[Dawn Shadforth]] với nhiều hình ảnh tri ân đến các tác phẩm nhạc kịch của [[Metro-Goldwyn-Mayer]]. Video chủ yếu cho thấy cảnh Minogue cùng dàn vũ công khiêu vũ tại đại sảnh, với phần vũ đạo do [[Michael Rooney]] đảm nhận. Bài hát đượcMinogue trình bày trực tiếp bởibài Minoguehát trong đêm nhạc cố định [[Money Can't Buy]] và chương trình truyền hình ''[[Top of the Pops]]''. "Chocolate" còn được xuất hiện trong các chuyến lưu diễn [[Showgirl: The Greatest Hits Tour|Showgirl: The Greatest Hits]] và [[Showgirl: The Homecoming Tour|Showgirl: The Homecoming]] của Minogue.
 
==Bối cảnh và sáng tác==
Dòng 36:
|format=[[Ogg]]
|pos=right}}
Sau thành công toàn cầu của album phòng thu thứ 8 ''[[Fever (album của Kylie Minogue)|Fever]]'', Minogue bắt tay thực hiện album phòng thu thứ 9 ''[[Body Language (album của Kylie Minogue)|Body Language]]''.<ref name=kyliebioallmusic>{{chú thích web|last=True|first=Chris|title=Kylie Minogue – Biography|url=http://www.allmusic.com/artist/kylie-minogue-mn0000776093/biography|publisher=[[AllMusic]]. [[All Media Network]]|accessdate=ngày 26 tháng 10 năm 2013}}</ref> Với mong muốn sáng tạo một album dance-pop lấy cảm hứng từ [[nhạc điện tử]] thập niên 1980,<ref name=developmentinterviewmtv>{{chú thích web|last=Ives|first=Brian|title=Kylie Minogue: Disco's Thin White Dame|url=http://www.mtv.com/news/articles/1485255/disco-down-under.jhtml|publisher=MTV. [[Viacom Media Networks]]|accessdate=ngày 26 tháng 10 năm 2013|author2=Bottomley, C.|date=ngày 24 tháng 2 năm 2004|archiveurl=http://web.archive.org/web/20131030132118/http://www.mtv.com/news/articles/1485255/disco-down-under.jhtml|archivedate=ngày 30 tháng 10 năm 2013}}</ref> Minogue tập hợp một nhóm cộng tác viên như Johnny Douglas (người từng hợp tác trong ''[[Light Years (album của Kylie Minogue)|Light Years]]'') và [[Karen Poole]]. Cả hai cùng nhau sáng tác "Chocolate", trong khi Douglas đảm nhận vai trò sản xuất bài hát.<ref name=singlekylie.com>{{chú thích web|title=Chocolate|publisher=Kylie.com. Parlophone|accessdate=ngày 27 tháng 10 năm 2013|url=http://www.kylie.com/discography/singles/chocolate/|archiveurl=http://web.archive.org/web/20140227144519/http://stage.kylie.com/discography/singles/chocolate/|archivedate=ngày 27 tháng 2 năm 2014}}</ref> Theo trang mạng chính thức của Minogue, "Chocolate" là một trong số những bài hát ưa thích của cô trong album.<ref name="singlekylie.com"/> Bài hát được chọn phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ ba trích từ ''Body Language'' vào ngày 28 tháng 6 năm 2004 bởi hãng thu âm [[Parlophone]]. Phiên bản [[Maxi CD]] của đĩa đơn có chứa "City Games" ở [[Mặt B]], một trong những bài hát đầu tiên được thu âm trong album.<ref name="singlekylie.com"/><ref name=maxicd>{{Cite AV media notes |title={{noitalic|"Chocolate"}} (Maxi CD) |year=2004 |first=Kylie |last=Minogue |authorlink=Kylie Minogue|type=Bìa ghi chú |publisher=[[Parlophone]]}}</ref>
 
"Chocolate" là một bản ballad mang những ảnh hưởng từ nhiều thể loại khác nhau, bao gồm [[Disco music|disco]]<ref name=stylusreview>{{chú thích web|last1=Seguy|first1=Eric|title=Kylie Minogue – Body Language – Review|url=http://www.stylusmagazine.com/reviews/kylie-minogue/body-language.htm|work=[[Stylus Magazine]]|accessdate=ngày 1 tháng 7 năm 2014|date=ngày 3 tháng 3 năm 2004}}</ref> và [[funk]].<ref name=reviewavclub>{{chú thích web|last1=Battaglia|first1=Andy|title=Kylie Minogue: Body Language|url=http://www.avclub.com/review/kylie-minogue-embody-languageem-11578|website=[[The A.V. Club]]|publisher=[[The Onion]]|accessdate=ngày 1 tháng 7 năm 2014|date=ngày 17 tháng 2 năm 2004}}</ref> Giọng ca của Minogue được tổng hợp trong khi có giọng điệu thì thầm và mang tiếng thở.<ref name="reviewspin"/><ref name="reviewguardian"/><ref name=reviewslant>{{chú thích web|last1=Cinquemani|first1=Sal|title=Kylie Minogue: Body Language|url=http://www.slantmagazine.com/music/review/kylie-minogue-body-language|work=[[Slant Magazine]]|accessdate=ngày 26 tháng 6 năm 2014|date=ngày 14 tháng 11 năm 2003}}</ref> Theo tạp chí âm nhạc ''[[Spin (tạp chí)|Spin]]'', nội dung của bài hát mô tả "sự say mê trong tình yêu" của Minogue được so sánh thông qua hình tượngảnh của [[chocolate]].<ref name="reviewspin"/> Từ [[PopMatters]], Adrien Begrand gọi ca từ của bài hát này "nóng bỏng", với ví dụ như câu "Hold me and control me and then/ Melt me slowly down".<ref name=reviewpopmatters>{{chú thích web|last1=Begrand|first1=Adrien|title=Kylie Minogue: Body Language|url=http://www.popmatters.com/review/minoguekylie-body/|publisher=[[PopMatters]]|accessdate=ngày 27 tháng 6 năm 2014|date=ngày 16 tháng 3 năm 2004|archiveurl=http://web.archive.org/web/20131108174718/http://www.popmatters.com/review/minoguekylie-body/|archivedate=ngày 8 tháng 11 năm 2013}}</ref> Helen Pidd từ ''[[The Guardian]]'' gọi lời ca của bài hát "đầy những lời hai nghĩa ngọt lịm."<ref name="reviewguardian"/>
 
==Tiếp nhận==
Dòng 52:
[[Tập tin:Kylie Minogue Chocolate Music Video.jpg|thumbnail|left|Minogue đang khiêu vũ cùng nhiều vũ công phụ họa trong video, với chiếc váy [[organza]] đỏ do nhà thiết kế thời trang người Áo [[Helmut Lang (nhà thiết kế thời trang)|Helmut Lang]] thực hiện.<ref name=reddressartscentremel />]]
 
Video âm nhạc của "Chocolate" đượcdo [[Dawn Shadforth]] đạo diễn, trong khi khâu biên đạo đượcdo [[Michael Rooney]] thực hiện. Shadforth và Rooney từng hợp tác với Minogue trong video "[[Can't Get You Out of My Head]]" vào năm 2001. Video này là sản phẩm tri ân đến các tác phẩm nhạc kịch do hãng truyền thông Mỹ [[Metro-Goldwyn-Mayer]] sản xuất.<ref name="singlekylie.com"/> Video có xuất hiện điệu nhảy [[ba-lê]] kéo dài 40 giây mà Minogue phải tập luyện dưới sự huấn luyện của Rooney trong 4 ngày. Cô thú nhận việc luyện tập rất vất vả, nhưng nghĩ rằng phần sản xuất sau cùng là một kết quả "xuất sắc".<ref name=videojulieaspinall>{{chú thích sách|last1=Aspinall|first1=Julie|title=Kylie: Queen of the World|date=ngày 2 tháng 6 năm 2008|publisher=[[John Blake Publishing]]|location=London|isbn=9781843586937|url=http://books.google.co.in/books?id=vbr_AQAAQBAJ&pg=PT149&dq=kylie+chocolate+video}}</ref> Minogue cảm thấy may mắn vì có thể kết hợp điệu nhảy ba-lê trong video và cho rằng chúng "rất khác biệt" so với những phần trình diễn khác của cô.<ref name="videojulieaspinall"/> Julie Aspinall, tác giả cuốn ''Kylie: Queen of the World'', viết rằng Minogue chọn "phong cách Gallic lịch thiệp" trong video và nhận thấy các ảnh hưởng từ người tình lúc bấy giờ của cô, nam diễn viên Pháp [[Olivier Martinez]].<ref name="videojulieaspinall"/> Tại giải [[American Choreography Awards]] 2004, Rooney đượcnhận đề cử cho hạng mục "Thành tựu biên đạo nổi bật - Video âm nhạc" trong "Chocolate".<ref name=acanomination>{{chú thích web|title=10th Annual American Choreography Awards Nominations Announced|url=http://system1.ipressroom.com/pr/aca/info/ACA10_Nominees_Announced.asp|publisher=Pressroom|accessdate=ngày 2 tháng 7 năm 2014|archiveurl=http://web.archive.org/web/20080123094116/http://system1.ipressroom.com/pr/aca/info/ACA10_Nominees_Announced.asp|archivedate=ngày 23 tháng 1 năm 2008|date=ngày 11 tháng 8 năm 2004}}</ref>
 
Video bắt đầu bằng cảnh quay Minogue đang tạo dáng trong một căn phòng tối, mặc trang phục lấp lánh với ánh đèn màu cầu vồng chiếu rọi. Sau đó, cô đượcxuất nhìn thấyhiện trước một bức tường khi mặc chiếc váy lả lướt màu nâu sẫm. Khi đoạn dẫn kết thúc và đoạn đầu của bài hát đến, Minogue xuất hiện trong một căn phòng lớn và trình bày nhiều điệu vũ với nhiều nữ vũ công mặc trang phục liền người. Minogue lúc này mặc chiếc váy [[organza]] xếp nếp đỏ do nhà thiết kế thời trang người Áo [[Helmut Lang (nhà thiết kế thời trang)|Helmut Lang]] thực hiện (năm 2006, Minogue tặng trang phục này cho bảo tàng [[Arts Centre Melbourne]] trong Kylie Minogue Collection).<ref name=reddressartscentremel>{{chú thích web|title=Collections – Dress worn by Kylie Minogue in video for Chocolate, 2004|url=http://collections.artscentremelbourne.com.au/paminter/imu.php?request=display&port=45013&id=b13e&flag=start&offset=0&count=1&view=details&irn=26329|publisher=[[Arts Centre Melbourne]]|accessdate=ngày 1 tháng 7 năm 2014|date=ngày 15 tháng 2 năm 2006}}</ref> Các cảnh quay vũ công thể hiện nhiều vũ đạo được xuất hiện xen kẽ. Một vài giây sau, Minogue và một người đàn ông nhảy cùng nhau trong khán phòng. Điệu vũ của họ kết thúc khi người đàn ông nhẹ nhàng đặt Minogue xuống sàn và bỏ đi. 12 người phụ nữ trong nhiều chiếc váy vàng và hồng phấn được nhìn thấy khi đang nhảy trên sàn màu nâu sẫm, mà sau đó được tiết lộ là chiếc mũ của Minogue khi máy ghi hình phóng rộng ra. Cô xuất hiện khi đang vẫy tay với một người nào đó và sau đó ngắt một cánh hoa hồng mà cô đang cầm. Phần còn lại của video là những cảnh cũ được chiếu xen kẽ một cách ngẫu nhiên.<ref name=musicvideokylie.com>{{cite AV media |author= [[Dawn Shadforth|Shadforth, Dawn]] (Đạo diễn), [[Michael Rooney|Rooney, Michael]] (Biên đạo), [[Kylie Minogue|Minogue, Kylie]] (Diễn chính)|year=2004 |title=Chocolate|format=Video âm nhạc |publisher=[[Parlophone]]}}</ref>
 
===Trình diễn trực tiếp===
Một đêm nhạc cố định, mang tên [[Money Can't Buy]] được tổ chứcdùng để quảng bá cho ''Body Language'' tổ chức tại nhà hát giải trí [[Hammersmith Apollo]], Luân Đôn.<ref name=moneycantbuybarco>{{chú thích web|last=Govaerts|first=Inge|title=Barco MiPIX and LED displays chosen for exclusive Kylie concert|url=http://www2.barco.com/en/corporate/pressrelease/1003/|publisher=[[Barco (manufacturer)|Barco]]|accessdate=ngày 27 tháng 10 năm 2013}}</ref> "Chocolate" nằm trong danh sách bài hát màn thứ hai "Bardello" trong đêm diễn.<ref name=moneycantbuysetlist>{{chú thích web|title=Kylie – Money Can't Buy|url=http://steveandersonproductions.com/kylie-money-cant-buy-body-language-live/|publisher=[[Steve Anderson (musician)|Steve Anderson]] Productions|accessdate=ngày 30 tháng 6 năm 2014|archiveurl=http://web.archive.org/web/20140630092900/http://steveandersonproductions.com/kylie-money-cant-buy-body-language-live/|archivedate=ngày 30 tháng 6 năm 2014}}</ref> Ngày 25 tháng 6 năm 2004, Minogue xuất hiện trên chương trình xếp hạng âm nhạc truyền hình Vương quốc Anh ''[[Top of the Pops]]'' để trình bày trực tiếp bài hát này.<ref name=totp25junebbc>{{chú thích web|title=From the 00's – Kylie Minogue – Chocolate (ngày 25 tháng 6 năm 2004)|url=http://www.bbc.co.uk/totp/artists/m/minogue_kylie/clips/chocolate.shtml|publisher=BBC|accessdate=ngày 3 tháng 7 năm 2014}}</ref> Cô trình bày lại bài hát này lần thứ hai tại chương trình vào ngày 9 tháng 7.<ref name=totp9julbbc>{{chú thích web|title=From the 00's – Kylie Minogue – Chocolate (ngày 9 tháng 7 năm 2004)|url=http://www.bbc.co.uk/totp/artists/m/minogue_kylie/clips/chocolate_1.shtml|publisher=BBC|accessdate=ngày 3 tháng 7 năm 2014|archiveurl=http://web.archive.org/web/20070213105731/http://www.bbc.co.uk/totp/artists/m/minogue_kylie/clips/chocolate_1.shtml|archivedate=ngày 13 tháng 2 năm 2007}}</ref>
 
"Chocolate" nằm trong chuyến lưu diễn [[Showgirl: The Greatest Hits Tour]] của Minogue vào năm 2005.<ref name=showgirlgreatesthitsmusicomh>{{chú thích web|last1=Hogwood|first1=Ben|title=Kylie Minogue – Showgirl: The Greatest Hits Tour|url=http://www.musicomh.com/music/dvds/kylie-minogue_1105.htm|publisher=[[MusicOMH]]|accessdate=ngày 30 tháng 6 năm 2014|archiveurl=http://web.archive.org/web/20131014073201/http://www.musicomh.com/music/dvds/kylie-minogue_1105.htm|archivedate=ngày 14 tháng 10 năm 2013}}</ref> Cô không thể hoàn thành chuyến lưu diễn vì được chẩn đoán mắc bệnh [[ung thư vú]] và phải hủy các đêm diễn tại Úc.<ref name=showgirlcancelledfridae>{{chú thích web|title=Kylie diagnosed with breast cancer, cancels aussie leg of showgirl tour|url=http://www.fridae.asia/gay-news/2005/05/18/1422.kylie-diagnosed-with-breast-cancer-cancels-aussie-leg-of-showgirl-tour|publisher=[[Fridae]]|accessdate=ngày 20 tháng 6 năm 2013|date=ngày 18 tháng 5 năm 2005}}</ref> Sau khi trải qua các cuộc điều trị, cô trở lại chuyến lưu diễn dưới cái tên [[Showgirl: The Homecoming Tour]] vào năm 2007 và "Chocolate" tiếp tục nằm trong danh sách biểu diễn.<ref name=showgirlhomecomingallmusic>{{chú thích web|last=Mawer|first=Sharon|title=Showgirl Homecoming Live- Kylie Minogue|url=http://www.allmusic.com/album/showgirl-homecoming-live-mw0000488336|publisher=AllMusic. All Media Network|accessdate=ngày 5 tháng 10 năm 2013}}</ref>