Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Niels Bohr”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Hien712 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
them chu thich
Dòng 54:
* [[Giải Nguyên tử vì Hòa bình]] (1957)
* [[Giải Sonning]] (1957)
* [[Hội Hoàng gia Luân Đôn|Thành viên ngoại quốc<br /> của Hội Hoàng gia]] (1962)<ref name="frs">{{Cite journal | last1 = Cockcroft | first1 = J. D. | authorlink = John Cockcroft| doi = 10.1098/rsbm.1963.0002| title = Niels Henrik David Bohr. 1885-1962 | journal = Biographical Memoirs of Fellows of the Royal Society | volume = 9 | pages = 36–53 | year = 1963| pmid = | pmc = }}</ref>
}}
| signature = Niels Bohr Signature.svg
Hàng 60 ⟶ 61:
}}
 
'''Niels Henrik David Bohr''' ({{IPA-da|ˈnels ˈboɐ̯ˀ|lang}}; 7 tháng 10, 1885 – 18 tháng 11, 1962) là [[nhà vật lý học]] người [[Đan Mạch]] với những đóng góp nền tảng về lý thuyết [[nguyên tử|cấu trúc nguyên tử]] và [[cơ học lượng tử|cơ học lượng tử sơ khai]], nhờ đó mà ông nhận [[Giải Nobel Vật lý]] năm 1922. Bohr còn là [[nhà triết học]] và tích cực thúc đẩy các hoạt động [[nghiên cứu khoa học]].<ref name="frs"/>
 
Ông phát triển [[mô hình Bohr]] cho cấu trúc [[nguyên tử]], với đề xuất mới đó là các mức năng lượng của [[electron]] trong nguyên tử bị gián đoạn, và chúng tồn tại trên những quỹ đạo ổn định quanh [[hạt nhân nguyên tử]], cũng như có thể nhảy từ một mức năng lượng (hay quỹ đạo) tới mức khác. Mặc dù sau đó có những mô hình khác đúng đắn hơn thay thế cho mô hình Bohr, nhưng những nguyên lý cơ sở của nó vẫn còn giá trị. Bohr đưa ra nguyên lý bổ sung trong cơ học lượng tử: rằng thực tại có thể được phân tích theo những tính chất mâu thuẫn với nhau, lúc thì hành xử giống như sóng hay như dòng hạt. Ý niệm về tính bổ sung đã ảnh hưởng đến tư tưởng của ông trong cả khoa học và triết học.
Hàng 66 ⟶ 67:
Năm 1920, Bohr sáng lập ra Viện Vật lý lý thuyết tại [[Đại học Copenhagen]], mà ngày nay đổi tên thành [[Viện Niels Bohr]]. Các cộng sự của ông bao gồm các nhà vật lý [[Hans Kramers]], [[Oskar Klein]], [[George de Hevesy]] và [[Werner Heisenberg]]. Bohr cũng tiên đoán sự tồn tại của một nguyên tố mới có tính chất giống [[zirconi]], sau này được đặt tên là [[hafnium]], tên gọi trong tiếng Latin của thủ đô Copenhagen. Trong bảng tuần hoàn, nguyên tố [[bohrium]] mang tên của ông.
 
Trong thập niên 1930, Bohr giúp đỡ những người trốn chạy khỏi [[chủ nghĩa phát xít]]. Sau khi Đan Mạch bị Đức chiếm đóng, ông đã có cuộc gặp mặt với Heisenberg, lúc đó là người đứng đầu của [[Dự án năng lượng hạt nhân Đức]]. Tháng 9 năm 1943, khi biết tin mình đang bị người Đức truy bắt, Bohr đã bay sang Thụy Điển. Từ đây, ông bay sang Anh, và gia nhập vào dự án vũ khí hạt nhân của nước này, nó là phần trách nhiệm của người Anh tham gia vào [[Dự án Manhattan]]. Sau chiến tranh, Bohr kêu gọi quốc tế hợp tác trong vấn đề năng lượng hạt nhân. Ông tham gia vào quá trình thành lập ra tổ chức [[CERN]]<ref>{{cite journal|title=Niels Bohr centenary|journal=CERN Courier|date=December 1985|volume=25|issue=10|pages=430–432|url=https://cds.cern.ch/record/1731108}}</ref> và Ủy ban năng lượng nguyên tử Đan Mạch, trở thành chủ tịch đầu tiên của [[Viện Vật lý lý thuyết Bắc Âu]] năm 1957.
 
== Cuộc đời ==