Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Touby Ly Foung”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 8:
Sau khi Xia Foung qua đời năm 1939, [[thực dân Pháp|người Pháp]] lựa chọn giữa hai người Hmông còn trẻ: [[Faydang Lobliayao|Faydang]] con trai thứ hai của Lo Blia Yao, và Touby. Touby được chọn, có lẽ do có mức độ giáo dục cao hơn, cũng như vì cha của Faydang đã cai trị độc tài gây xa lánh của một số người Hmông. Song sự chọn lựa này gây ra sự bất bình lâu dài của [[Faydang Lobliayao|Faydang]] <ref name="Stuart39"/><ref name="Chan9"/>.
 
Những năm sau, Hải quan (Régie de l'Opium) trao cho Touby giám sát việc thực hiện loại thuế mới đánh vào [[thuốc phiện]] nông dân phải nộp bằng hiện vật. Trong [[Thế chiến 2]], chính quyền Pháp thiếtđưa lậpra một chương trình nghị sự đầy tham vọng bao gồm cả việc xây dựng trường học và đường giao thông ở Lào. Chính quyền giữ độc quyền bán [[thuốc phiện]] và đượcđịnh sử dụng để tài trợ cho dự án này. Người Hmông là nguồn cung [[thuốc phiện]] chính, và gia tộc Ly Foung nắm quyền buôn bán <ref>Stuart-Fox, p.55-56</ref>.
 
Tháng Ba năm 1945 Touby đón chào các biệt kích Pháp nhảy dù từ Calcutta <ref>Jean Deuve, ''Guérilla au Laos'', L'Harmattan, 1997 (1ère édition en 1966, sous le nom de Michel Caply), pp.82-83.</ref> và tham gia du kích chống Nhật <ref>Deuve, pp.116-118.</ref>. Cùng lúc đó nhóm Hmông khác dẫn đầu là [[Faydang Lobliayao|Faydang]], đứng về phía [[Việt Minh]] <ref>Stuart-Fox, p.71</ref>.
 
== Sau Thế chiến thứ hai ==
 
Sau [[Thế chiến 2]] chính quyền Pháp trao cho Touby danh hiệu ''Chao Muang'', vị trí ở cấp quốc gia lần đầu tiên cho người Hmông <ref>Geoffrey C. Gunn, ''Political struggles in Laos, 1930-1954: Vietnamese communist power and the struggle for national independence.'' Bangkok: Editions Duang Kamol, 1988, p.227.</ref>. Trong suốt cuộc [[Chiến tranh Đông Dương|chiến tranh Đông Dương thứ nhất]], các bộ tộc Hmông ủng hộ Touby phục vụ Pháp, hoặc trong quân đội thường trực Pháp <ref name="Gareth">D.Gareth Porter, "After Geneva: Subverting Laotian neutrality'', dans ''Laos: war and revolution''. New York, Harper & Row, 1970, p.182-183.</ref>.
 
== Sau năm 1975 ==