Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Phụng Thiên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tài liệu tham khảo: clean up, replaced: {{Commonscat → {{thể loại Commons using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 10:
|combatant2=[[Tập tin:Flag of Russia (bordered).svg|22px]] [[Đế quốc Nga]]
|commander1=[[Tập tin:Naval Ensign of Japan.svg|22px|border]] Nguyên soái [[Ōyama Iwao]]
|commander2=[[Tập tin:Naval Ensign of Russia.svg|22px|border]] TướngĐại tướng [[Alexei Kuropatkin]]
|strength1=20 vạn<ref>Martin, trang 193</ref>-27 vạn<ref name="Menning p.187">Menning, trang 187</ref><br>500 khẩu pháo
|strength2=21 vạn<ref>Martin, trang 189</ref>-33 vạn<ref name="Menning p.187"/><br>800 khẩu pháo
Dòng 22:
Sau [[trận Liêu Dương]] (diễn ra từ ngày [[24 tháng 8]] đến [[4 tháng 9]] năm [[1904]]), quân đội Nga rút lui về [[sông Sa]] phía nam [[Thẩm Dương|Phụng Thiên]] tập hợp lại lực lượng. Từ ngày 5 đến ngày 17 tháng 10 năm 1904, trong [[trận sông Sa]], quân Nga phản công bất thành nhưng đã hãm bớt được đà tiến của quân đội Nhật. Cuộc phản công thứ hai sau đó của quân Nga trong [[trận Sandepu]] từ ngày 25 đến ngày 29 tháng 1 năm 1905 suýt nữa đã thành công nhưng điều kiện mùa đông khắc nghiệt ở [[Mãn Châu]] đã khiến người Nga mất cơ hội.
 
Sau khi chiếm được [[cảng Lữ Thuận]] vào tháng 1 năm [[1905]], quân đội Nhật Bản tại Mãn Châu đã được tăng cường bằng các lực lượng của [[Tập đoàn quân thứ3 (Đế quốc Nhật Bản)|Tập đoàn quân 3]]<ref>Về binh lực, một Tập đoàn quân Nhật Bản chỉ tương đương một Quân đoàn Nga.</ref> do TướngĐại tướng [[Nogi Maresuke]] chỉ huy tiến từ phía nam lên. Đến tháng 2 năm 1905, toàn bộ lực lượng dự bị của quân đội Nhật Bản đã cạn kiệt. Toàn bộ lục quân Nhật giờ đây tập trung tại Phụng Thiên. Thương vong ngày càng cao, điều kiện thời tiết khắc nghiệt cộng với việc [[Hạm đội Baltic Nga]] đang tiến đến gây ra áp lực cho nguyên soái [[Ōyama Iwao]] phải tiêu diệt toàn bộ quân đội Nga tại Mãn Châu trước khi quân tiếp viện Nga đến qua tuyến [[đường sắt xuyên Siberi|đường sắt xuyên Xibia]].
 
== Bố trí lực lượng hai bên ==
Phòng tuyến của quân Nga tại phía nam Phụng Thiên dài 140&nbsp;km (90 dặm), với chiều sâu không nhiều và lực lượng dự bị ở trung tâm. Ở phía cánh phải là Tập đoàn quân số 12 Mãn Châu do Đại tướng [[Nam tước]] [[Alexandr Kaulbars|von Kaulbars]] chỉ huy (thay thế tướng [[Oskar-Ferdinand Kazimirovich Grippenberg]]). Ở trung tâm, bảo vệ tuyến đường sắt và đường bộ là Tập đoàn quân số 3 Mãn Châu của tướng Bildering[[Alexandr Bilderling|von Bilderling]]. Vùng đồi núi cánh phía đông được trấn giữ bởi Tập đoàn quân số 1 Mãn Châu của tướng [[Nikolai Linevich]]. Cánh này còn được yểm trợ bằng 2/3 lực lượng [[kỵ binh]] Nga, do Tướng [[Paul von Rennenkampf]] chỉ huy. Tướng Kuropatkin đã bố trí quân lực theo một thế trận phòng thủ đơn thuần và do đó hầu như không thể thực hiện một cuộc phản công nếu không tạo một khoảng trống lớn trong phòng tuyến.
 
Về phía quân Nhật, [[Tập đoàn quân số1 (Đế quốc Nhật Bản)|Tập đoàn quân 1]] của tướng [[Kuroki Tamemoto]] và [[Tập đoàn quân số4 (Đế quốc Nhật Bản)|Tập đoàn quân 4]] của tướng [[Nozu Michitsura]] tiến về phía đông tuyến đường sắt, và tập[[Tập đoàn quân số2 (Đế quốc Nhật Bản)|Tập đoàn quân 2]] của tướng [[Oku Yasukata|Yasukata Oku]] tiến về phía tây. Tập đoàn quân số 3 của tướng [[Nogi Maresuke]] được bố trí phía sau tập đoàn quân số 2 cho đến khi trận đánh bắt đầu. [[Tập đoàn quân số5 (Đế quốc Nhật Bản)|Tập đoàn quân 5]] mới vừa thành lập của tướng [[Kawamura Kageaki]] làm nhiệm vụ nghi binh cánh phía đông của quân Nga. Lực lượng của tập đoàn quân này là thiếu hụt nhiều nhất, chỉ có sư đoàn 11 (từ [[cảng Lữ Thuận]]) và quân dự bị.
 
Tướng Kuropatkin tin rằng cuộc tấn công của quân Nhật sẽ đến từ vùng đồi núi phía đông, nơi mà địa hình thuận lợi cho họ. Sự có mặt của sư đoàn 11 là những cựu binh của Tập đoàn quân số 3 càng củng cố lòng tin đó của ông. Trong khi đó, kế hoạch của Nguyên soái Ōyama là triển khai 5 tập đoàn quân của ông thành một hình lưỡi liềm bao vây Phụng Thiên, chặn đứng mọi đường rút lui của quân Nga. Mệnh lệnh dành cho ông là tránh một cuộc giao chiến bên trong thành phố Phụng Thiên. Trong suốt cuộc chiến tranh này, người Nhật đã theo đuổi một chính sách trong đó hạn chế tối đa thương vong dân thường và giữ cho người Trung Quốc đứng về phía họ - đây là một chính sách khác hẳn với [[Chiến tranh Thanh-Nhật]] trước đó và [[Chiến tranh Trung-Nhật]] sau này.
Dòng 33:
== Diễn biến ==
[[Tập tin:Retreat of the Russian Army after the Battle of Mukden.jpg|nhỏ|trái|250px|Quân Nga tháo chạy ra khỏi thành phố [[Thẩm Dương|Phụng Thiên]] sau trận đánh.]]
Trận đánh mở đầu khi Tập đoàn quân số 5 Nhật Bản bắt đầu tấn công cánh trái quân Nga vào ngày [[20 tháng 2]]. Ngày [[27 tháng 2]], đến lượt Tập đoàn quân số 4 tấn công cánh trái, trong khi các lực lượng còn lại của Quân độiquân Nhật Bản tấn công thẳng vào trung tâm phòng tuyến. Cũng trong ngày này, Tập đoàn quân số 3 mới bắt đầu tiến quân dọc phía tây bắc Phụng Thiên.
 
Từ ngày [[1 tháng 3]] năm 1905, chiến sự tại phòng tuyến phía đông và trung tâm diễn ra vô cùng ác liệt. Quân Nhật tiến lên không được bao nhiêu nhưng chịu thương vong vô cùng to lớn. Tuy nhiên, đến ngày [[7 tháng 3]], tướng Kuropatkin quyết định điều quân từ phòng tuyến phía đông lên chặn đứng Tập đoàn quân số 3 Nhật Bản đang ở phía tây Phụng Thiên vì quá lo lắng trước những động thái di chuyển của tập đoàn quân này. Việc chuyển quân từ phía đông sang phía tây không được điều phối tốt đã khiến cho Tập đoàn quân Mãn Châu số 1 và số 3 rơi vào tình trạng hỗn loạn. Điều này đưa đến cơ hội mà nguyên soái Ōyama đã chờ đợi từ lâu. Ông ra lệnh chuyển sang "truy kích và tiêu diệt" thay cho lệnh "tấn công" lúc trước. May mắn đã đến với người Nhật khi con sông HungHồn vẫn còn đóng băng và không gây trở ngại cho cuộc tấn công.
 
Bị bao vây và không còn cơ hội giành chiến thắng, tướng Kuropatkin đã ra lệnh rút lui về phía bắc vào lúc 18 giờ 45 phút ngày [[9 tháng 3]]. Cuộc rút lui của quân Nga càng thêm hỗn loạn khi tướng Nozu của Nhật Bản chọc thủng được phía sau phòng tuyến Nga trên sông HungHồn. Tàn quân Nga rút chạy về phía [[Thiết Lĩnh]] đã bỏ lại những người đồng đội bị thương của họ, vũ khí và tiếp liệu trên đường đi của mình.
 
Lúc 10 giờ sáng ngày [[10 tháng 3]], Quân độiquân Nhật Bản đã chiếm lĩnh được Phụng Thiên và trận đánh kết thúc. Sau khi hay tin, [[Thiên hoàng Minh Trị]] đã khen ngợi quân lực của ông về cuộc chiến đấu anh dũng và đại thắng ở Phụng Thiên<ref name="keeper612"/>.
 
== Kết quả ==
Thương vong của quân Nga trong trận này ước tính gần 90.000.<ref name="Menning p.194"/><ref name="Martin p.207"/> Người Nga còn mất hầu hết số quân nhu cũng như [[pháo]] và [[súng máy hạng nặng]]. Lo sợ trước đà tiến của quân Nhật, đại tướng Kuropatkin lệnh cho quân Nga rút về [[Thiết Lĩnh]] tiếp tục rút sâu hơn về phía bắc. Cuộc rút lui kéo dài trong 10 ngày, đến phòng tuyến mới tại Hspingkai (ngày nay là [[Tứ Bình]], [[tỉnh Cát Lâm]]). Thương vong của quân Nhật là 75.000<ref name="Menning p.194"/><ref name="Martin p.207"/> với tỉ lệ chết và bị thương cao hơn phía quân Nga.
 
Tuy chiến thắng Phụng Thiên vang dội nhưng sau trận này, quân đội Nhật Bản gần như kiệt lực về nhân lực cũng như về đạn dược.<ref>Vĩnh Sính, ''Nhật Bản cận đại'', trang 166</ref> Quân Nga rút lui có trật tự, và quân Nhật cũng không truy kích. Tuy nhiên, tinh thần của người Nga bị tổn thương nặng nề với trận đại bại tại Phụng Thiên.<ref name="SandraWilson11"/> Trận Phụng Thiên là trận đánh trên bộ cuối cùng của [[Chiến tranh Nga-Nhật]] (1904 &ndash; 1905). Đây cũng là trận đánh trên bộ lớn nhất trong cuộc chiến tranh này đồng thời là một trong những trận đánh lâu dài nhất trong lịch sử quân sự cận - hiện đại.<ref name="SandraWilson11">David Wells, Sandra Wilson, ''The Russo-Japanese war in cultural perspective, 1904-05'', trang 11</ref>
 
Sau này, [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản]] sẽ còn đại phá [[Hải quân Đế quốc Nga]] trong trận [[hải chiến Tsushima]]. Những chiến thắng của Lục quân và Hải quân Nhật Bản tại Phụng Thiên và Tsushima, cùng với việc cảng Lữ Thuận thất thủ, đã khiến cho nước Nga phải giảng hòa, và cuộc chiến tranh kết thúc với chiến thắng của đất nước Nhật Bản.<ref name="encyclopeadia276">Roger Parkinson, ''The encyclopedia of modern war'', trang 276</ref> Vì vậy, sau đại thắng Phụng Thiên, phong trào phản chiến của những người cấp tiến ở Nhật chẳng thể nào lan rộng.<ref name="donald688"/>
 
== Sau này ==