Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vương Xử Trực”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: clean up using AWB
n →‎Ly khai Hậu Lương: sửa chính tả 3, replaced: tứng → từng using AWB
Dòng 21:
Năm 910, Hậu Lương Thái Tổ khiển Đỗ Đình Ẩn (杜廷隱) và Đinh Diên Huy (丁延徽) dùng phương thức gian trá mà chiếm được Thâm châu (深州) và Kí châu (冀州<ref group="chú">hai châu này nay đều thuộc [[Hành Thủy]], Hà Bắc</ref> của Vũ Thuận, sau đó chuẩn bị khiển bộ tướng [[Vương Cảnh Nhân]] tiến công Trấn châu (鎮州)- thủ phủ của Vũ Thuận. Đáp lại, Vương Dung cắt đứt quan hệ với Hậu Lương (trở thành quân chủ [[Triệu (Ngũ đại)|nước Triệu]]) và cầu viện con- người kế nhiệm của Lý Khắc Dụng là Tấn vương [[Hậu Đường Trang Tông|Lý Tồn Úc]], cũng như Lô Long<ref group="chú">盧龍, trị sở nay thuộc [[Bắc Kinh]]</ref> tiết độ sứ là Yên vương [[Lưu Thủ Quang]]. Biết rằng nếu Triệu bị diệt thì Nghĩa Vũ sẽ là mục tiêu kế tiếp, Vương Xử Trực cũng khiển một sứ giả đến Thái Nguyên, bày tỏ việc ủng hộ Lý Tồn Úc làm lãnh đạo chung.<ref name=ZZTJ267/>
 
Lưu Nhân Cung từ chối cứu viện, song Lý Tồn Úc thì chấp thuận, phái bộ tướng [[Chu Đức Uy]] làm tiên phong và sau đó đích thân dẫn đại quan Tấn cứu viện Vương Dung. Trong các chiến dịch sau đó giữa liên minh Tấn/Triệu và quân Hậu Lương, Vương Xử Trực cũng hợp binh với phe Tấn/Triệu, họ tiêu diệt quân Hậu Lương của Vương Cảnh Nhân vào mùa xuân năm 911. Từ thời điểm này trở đi, Nghĩa Vũ là đồng minh của Tấn và sử dụng niên hiệu "Thiên Hựu" của triều Đường (do Tấn bề ngoài tuyên bố là muốn khôi phục triều Đường). Sau khi Vương Cảnh Nhân chạy trốn, Lý Tồn Úc truy kích, thậm chí tứngtừng bao vây Ngụy châu<ref group="chú">魏州, nay thuộc [[Hàm Đan]], Hà Bắc</ref> trong một thời gian ngắn, song vì lo ngại sẽ bị Lưu Thủ Quang tiến công từ phía sau, Lý Tồn Úc lại dẫn quân về Triệu.<ref name=ZZTJ267>''Tư trị thông giám'', [[:zh:s:資治通鑑/卷267|quyển 267]].</ref>
 
== Cai trị độc lập ==