Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hải Thượng Lãn Ông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Thân thế và chí hướng lập thân: ngày sinh chua khớp với chú thích
Dòng 4:
 
==Thân thế và chí hướng lập thân==
'''Lê Hữu Trác''' [[sinh ngày 11 tháng 12 năm canhCanh 1720]] tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh [[Hải Dương]] (nay là xã Liêu Xá, huyện [[Yên Mỹ]], tỉnh [[Hưng Yên]])<ref>Có nguồn ghi ông [http://web.archive.org/web/20120423230259/http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/danhy/htmdocs/HaiThuongLanOng.htm Sinhsinh ngày 12/11/1724 năm Giáp Thìn về cuối đời Hậu Lê, ở thôn Văn Xá, làng Lưu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương, (nay là thôn Thanh Xá, xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, Hải Hưng)...]</ref>. Tuy nhiên, cuộc đời ông phần nhiều (đặc biệt là từ năm 26 tuổi đến lúc mất) gắn bó với ở quê mẹ thôn Bầu Thượng (hay Bàu Thượng), xã Tĩnh Diệm, [[hương Sơn|huyện Hương Sơn]], [[đức Quang|phủ Đức Quang]], [[xứ Nghệ|trấn Nghệ An]] (nay là xã Sơn Quang, huyện [[Hương Sơn]], tỉnh [[Hà Tĩnh]])<ref>[http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/danhy/htmdocs/HaiThuongLanOng.htm mẹ quê ở Bàu Thượng, làng Tình Diễm, Hương Sơn, Hà Tĩnh...]</ref>. Ông là con của ông Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng<ref>[http://www.hanoimoi.com.vn/vn/41/160177/ Thân sinh của ông là Tiến sĩ Lê Hữu Mưu...Mẹ là Bùi Thị Thường...]</ref>. Là người con thứ bảy nên ông còn được gọi là cậu '''Chiêu Bảy'''.
 
Dòng tộc ông vốn có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều [[Lê Dụ Tông]], gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư (năm Kỷ Mùi 1739). Khi ấy, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân.