Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thảm họa Bhopal”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Chú thích: AlphamaEditor, General Fixes
n sửa chính tả 3, replaced: sự dụng → sử dụng (2) using AWB
Dòng 60:
* Tháp loe và máy lọc khí đã ngừng hoạt động 5 tháng trước khi thảm họa xảy ra. Máy lọc khí do vậy đã không xử lý những khí thoát với [[natri hiđroxit|sodium hydroxide]] ([[natri hiđroxit|xút ăn da]]), giảm nồng độ xuống mức an toàn. Thậm chí nếu như máy lọc khí làm việc, theo những nghiên cứu về hậu quả của thảm họa, áp xuất lớn nhất mà máy có thể xử lý chỉ bằng 1/4 áp xuất trong vụ tai nạn. Cho nên, tháp loe đã được thiết kế không hợp lý và chỉ có thể xử lý 1/4 lượng khí rò rỉ năm 1984.
* Để giảm chi phí năng lượng, hệ thống làm lạnh, vốn được thiết kế để ngăn sự bay hơi của MIC, đã bị tắt. MIC được giữ ở nhiệt độ 20 độ C ([[nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn|nhiệt độ phòng]]), thay vì 4.5 độ C như trong tài liệu hướng dẫn. Một phần chất tải lạnh đã được sử dụng cho mục đích khác.
* Lò hơi, được sựsử dụng để làm sạch đường ống, đã ngừng hoạt động không rõ nguyên do.
* Những tấm chắn vốn có thể ngăn nước từ những đường ống đang được làm sạch rò rỉ vào trong thùng chứa MIC qua những van hỏng đã không được lắp đặt.
* Bình chứa MIC đã bị hỏng khoảng một tuần trước đó. Những bình chứa khác được sử dụng thay thế, thay vì việc sửa bình chứa bị vỡ.
Dòng 82:
* Tháng 11-1984, tất cả các hệ thống an toàn của nhà máy đều không làm việc. Rất nhiều van và đường ống ở trong tình trạng rất xấu. Bình chứa 610 chứa 42 tấn MIC, nhiều hơn nhiều so với quy định an toàn cho phép.
* Trong đêm 2-3 tháng 12, một lượng lớn nước tràn vào bình chứa 610. Một phản ứng tỏa nhiệt xảy ra, tốc độ phản ứng tăng lên bởi các tạp chất, nhiệt độ cao và các nhân tố khác. Phản ứng gây nên sự tăng nhiệt độ bên trong thùng chứa lên trên 200[[độ Celsius|°C]] (400[[độ Fahrenheit|°F]]). Để giảm áp xuất bình chứa, một lượng lớn hơi MIC được xả ra ngoài. Sự hiện diện của sắt từ những đường ống làm bằng thép không rỉ bị ăn mòn cũng làm tăng tốc độ phản ứng.
 
* Những công nhân trước đó đã làm sạch đường ống bằng nước. Họ không được thông báo phải sử dụng một tấm cách ly nước. Vì lý do này, và tình trạng bảo trì tồi tệ, những công nhân cho rằng đó là cách nước lọt vào bình chứa MIC.
* UCC cho rằng đó là hành động phá hoại của công nhân.
Hàng 118 ⟶ 117:
* Ước tính có khoảng 20,000 người chết vì những căn bệnh liên quan đến khí ga, 100,000 đến 200,000 người khác mang thương tật vĩnh viễn.
* Kết quả của những nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ có sự khác biệt. Các triệu chứng theo nghiên cứu và ghi chép gồm các vấn đề về mắt, khó thở, rối loạn thần kinh và miễn dịch, rối loạn tim, tổn thương phổi, sự khó sinh ở phụ nữ và những khuyết tật ở trẻ sơ sinh. Một số triệu chứng và bệnh lý khác thường được quy là liên quan đến sự phơi nhiễm khí ga, tuy vẫn không có nghiên cứu đáng tin cậy nào chỉ ra điều đó.
* Một phòng khám được thành lập bởi một nhóm những người sống xót và các nhà hoạt động xã hội dưới tên Sambhavna. Sambhavna là phòng khám duy nhất điều trị cho bất cứ ai bi ảnh hưởng bởi khí ga hoặc do nguồn nước bị ô nhiễm, phương thức điều trị sựsử dụng kết hợp thuốc Tây và các loại thuốc truyền thống của Ấn Độ.
* Union Carbide cũng như chính phủ Ấn Độ trong một khoảng thời gian dài phủ nhận những tổn thương vĩnh viễn liên quan đến MIC và các loại khí khác. Tháng 1-1994, Ủy ban y học quốc tế về Bhopal (IMCB) đã đến Bhopal để điều tra tình trạng sức khỏe những người sống sót, hệ thống chăm sóc sức khỏe và sự tái phục hồi kinh tế-xã hội.