Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Vai trò đảng phái: đánh vần, replaced: qui trình → quy trình
n →‎Lịch sử: sửa chính tả 3, replaced: 1 cách → một cách using AWB
Dòng 37:
Về cuối thế kỷ 19, chức vụ chủ tịch hạ viện bắt đầu phát triển thành một chức vụ đầy quyền lực. Một trong số những nguồn lực quan trọng nhất để tạo nên quyền lực của chủ tịch hạ viện là chức vụ chủ tịch [[Ủy ban Luật pháp Hạ viện Hoa Kỳ]] (''United States House Committee on Rules'') mà sau khi có cuộc tái tổ chức hệ thống ủy ban vào năm 1880 đã trở thành một ủy ban thường trực đầy quyền lực nhất của Hạ viện Hoa Kỳ. Hơn thế, một số các chủ tịch hạ viện đã trở thành những khuôn mặt lãnh đạo trong các đảng chính trị của mình; các ví dụ gồm có các đảng viên Dân chủ [[Samuel J. Randall]], [[John Griffin Carlisle]], và [[Charles Frederick Crisp|Charles F. Crisp]], hay đảng viên Cộng hòa [[James G. Blaine]], [[Thomas Brackett Reed]], và [[Joseph Gurney Cannon]].
 
Quyền lực của chủ tịch hạ viện được nâng lên tầm cao dưới thời của đảng viên Cộng hòa [[Thomas Brackett Reed]] (1889–1891, 1895–1899) làm chủ tịch hạ viện. "Sa hoàng Reed", biệt danh mà các đối thủ của ông đã dùng để gọi ông,<ref>Robinson, William A. "Thomas B. Reed, Parliamentarian". ''The American Historical Review'', October, 1931. pp. 137–138.</ref> đã tìm cách chấm dứt sự ngăn cản thông qua các đạo luật mà đảng thiểu số thường tiến hành bằng chiến thuật không bỏ phiếu mặc dù có mặt tại phòng họp hạ viện.<ref>{{chú thích web | last=Oleszek | first=Walter J. | url=http://www.rules.house.gov/archives/pre20th_rules.htm | title=A Pre-Twentieth Century Look at the House Committee on Rules | publisher=U.S. House of Representatives | date=December 1998 | accessdate=ngày 5 tháng 7 năm 2007}}</ref> Bằng cách từ chối bỏ phiếu như thế, đảng thiểu số có thể tin chắc rằng số phiếu biểu quyết cần thiết không đạt được thì kết quả biểu quyết sẽ trở thành bất hợp lệ và vì vậy 1 đạo luật sẽ không thể trở thành luật. Tuy nhiên, Reed tuyên bố rằng các thành viên hạ viện có mặt tại phòng họp hạ viện nhưng từ chối bỏ phiếu sẽ vẫn được tính phiếu vì mục đích đạt được con số phiếu cần thiết. Bằng cách này và những lệnh khác, Reed muốn bảo đảm rằng các đảng viên Dân chủ không thể ngăn cản chương trình nghị sự của đảng Cộng hòa. Vị thế chủ tịch hạ viện lên đến đỉnh điểm trong nhiệm kỳ của đảng viên Cộng hòa [[Joseph Gurney Cannon]] (1903–1911). Cannon đã thực hiện sự kiểm soát khác thường đối với tiến trình lập pháp; ông định đoạt chương trình nghị sự của Hạ viện Hoa Kỳ, bổ nhiệm thành viên cho tất cả các ủy ban hạ viện, chọn ra các chủ tịch ủy ban hạ viện, lãnh đạo ủy ban luật pháp hạ viện, và định đoạt ủy ban hạ viện nào sẽ được xem xét mỗi đạo luật. Ông sử dụng quyền lực của mình 1một cách mạnh mẽ để đoan chắc rằng các đề nghị của đảng Cộng hòa được Hạ viện Hoa Kỳ thông qua. Tuy nhiên vào năm 1910, các đảng viên Dân chủ và một số đảng viên Cộng hòa bất mãn đã cùng hợp sức với nhau tước lấy rất nhiều quyền lực của ông trong đó có bao gồm khả năng nêu tên các thành viên ủy ban và chức chủ tịch Ủy ban Pháp luật Hạ viện Hoa Kỳ.<ref>Charles O. Jones, "Joseph G. Cannon and Howard W. Smith: An Essay on the Limits of Leadership in the House of Representatives," ''Journal of Politics'' (1968), 30: 617-646 doi: 10.2307/2128798</ref> 15 năm sau, Chủ tịch Hạ viện [[Nicholas Longworth]] đã phục hồi lại được rất nhiều quyền lực đã mất nhưng không phải là tất cả những quyền lực đã bị mất từ chức vụ này.
 
[[Hình:JGCannon.jpg|nhỏ|upright|[[Joseph Gurney Cannon]] (1903–1911) là một trong những Chủ tịch Hạ viện quyền lực nhất.]]