Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tì-kheo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: sửa chính tả 3, replaced: Từ Điển → Từ điển (2) using AWB
n →‎top: clean up, replaced: → using AWB
Dòng 16:
Cuộc sống cơ hàn của Tỳ kheo được thể hiện trong chiếc áo [[cà-sa]] của các vị đó, gồm có ba phần ([[Tam y]], (sa. ''tricīvara'') và do vải vụn kết lại. Vật dụng hàng ngày chỉ gồm bát khất thực, dao cạo, kim chỉ, đồ lọc nước và gậy kinh hành. Tỳ kheo không được nhận tiền bạc hay các vật dụng khác. Thức ăn là do sự cúng dường.
 
Các vị tỳ kheo sống chung với nhau trong một đoàn thể gọi là [[Tăng đoàn]], gồm bốn vị Tỳ kheo trở lên. Trong mùa mưa, các vị đó thường buộc phải an trú trong một tịnh xá (zh. 精舍, sa., pi. ''vihāra''). lý do là vì nếu đi lại trong mùa mưa, các vị có thể gây tai hại cho động vật và cây cối. Vì vậy, các vị chỉ được rời tu viện vì lý do đặc biệt trong mùa này. Mùa [[An cư kiết hạ|An cư]] được chấm dứt bằng buổi lễ Tự tứ (zh. 自恣, sa. ''pravāraṇā''), trong đó các vị cùng sống chung trong một trú xứ, trao đổi kinh nghiệm tu tập, hoằng truyền chánh pháp, kiểm điểm lại lỗi lầm hay thiếu sót với nhau. Qua năm tháng, Tỳ kheo ít đi vân du, các vị sống nhiều trong các tu viện, tuy nhiên, tục đi hành hương chiêm bái vẫn còn được giữ đến ngày nay. Ngày nay, các Tỳ kheo phần lớn vẫn còn giữ tập tục như hồi đức Phật còn tại thế, đặc biệt là [[Nam tông Phật pháp|Nam tông]], nhưng mặt khác, họ phải thích nghi với đời sống xã hội và điều kiện địa lý. Ví dụ như các Tỳ kheo [[Trung Quốc]] thường hay làm công việc đồng áng, đó là điều mà Tỳ kheo ngày xưa không được làm vì sợ giết hại sinh mệnh côn trùng. Trong một vài trường phái của [[Tây Tạng]] và [[Nhật Bản]], Tỳ kheo có thể lập gia đình, có vợ con. Các quy định về khất thực cũng thay đổi nhiều qua thời gian.
 
==Xem thêm==