Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kh-59”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, General Fixes |
n →Phát triển: clean up, replaced: → using AWB |
||
Dòng 41:
[[MKB Raduga|Raduga OKB]] phát triển Kh-59 vào thập niên 1970 như một phiên bản tầm của Kh-25 (AS-10 'Karen'),<ref name="Janes59">{{chú thích | title=Kh-59 (AS-13 'Kingbolt'/Ovod) | url=http://www.janes.com/articles/Janes-Strategic-Weapon-Systems/Kh-59-AS-13-KingboltOvod-Russian-Federation.html | journal=Jane's Strategic Weapon Systems | date=2008-09-09 | accessdate=2009-02-03}}</ref> như một vũ khí chính xác tấn công từ xa cho Su-24M và Mig-27.<ref name="Janes59-2">{{chú thích | title=Kh-59 Ovod (AS-13 'Kingbolt') | url=http://www.janes.com/articles/Janes-Air-Launched-Weapons/Kh-59-Ovod-AS-13-Kingbolt-Russian-Federation.html | date=2007-10-24 | accessdate=2009-02-03}}</ref>. Các cảm biến quang-điện tử cho loại tên lửa này và các vũ khí khác như [[Kh-29]] (AS-14 'Kedge') và bom KAB-500 được phát triển bởi [[Krasnogorskiy Zavod|S A Zverev NPO]] tại Krasnogorsk.<ref name="Janes59" />
Người ta tin rằng việc phát triển Kh-59M bắt đầu vào thập niên 1980<ref name="Janes59M">{{chú thích | title=Kh-59M (AS-18 'Kazoo'/Ovod-M)
==Thiết kế==
|