Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Paul Keres”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 3, replaced: Thế chiến thứ hai → Chiến tranh thế giới thứ hai (5) using AWB
n Đã lùi lại sửa đổi 24072944 của TuanminhBot (thảo luận)
Dòng 18:
'''Paul Keres''' ([[7 tháng 1]] năm 1916{{spaced ndash}}[[5 tháng 6]] năm 1975) là một [[Đại kiện tướng]] cờ vua [[người Estonia]] đồng thời là tác giả viết về [[cờ vua]]. Ông nằm trong top những kỳ thủ hàng đầu thế giới giai đoạn giữa thập niên 1930 đến giữa thập niên 1960.
 
Keres suýt soát lỡ hẹn với trận tranh ngôi vô địch thế giới năm lần. Chiến thắng tại [[Giải cờ vua ARVO 1938|giải AVRO]] năm 1938 đem đến cho ông cơ hội thỏa thuận về một trận đấu tranh ngôi vương với nhà đương kim vô địch khi đó là [[Alexander Alekhine]], nhưng trận đấu đó đã không bao giờ được tổ chức do [[ChiếnThế tranh thế giớichiến thứ hai]]. Sau chiến tranh Keres có bốn lần đạt vị trí á quân ở các [[giải Candidates]].
 
Do những thành tích ấn tượng, một phần như đã nêu trên, nhiều nhà sử học về cờ vua đánh giá Keres là kỳ thủ mạnh nhất trong số những kỳ thủ chưa từng lên ngôi vô địch thế giới đồng thời là một trong số những kỳ thủ vĩ đại nhất mọi thời đại. Ông được đặt cho biệt danh "Paul đệ nhị", "người luôn về nhì" và "thái tử cờ vua".<ref>David Hooper, Ken Whyld, Kenneth Whyld, ''The Oxford Companion to Chess'', Oxford University Press 1992, page 198</ref> Keres cùng với [[Viktor Korchnoi]] và [[Alexander Beliavsky]] là ba người từng đánh bại nhiều nhà vô địch cờ vua thế giới nhất trong lịch sử (9 nhà vô địch).
Dòng 31:
Vào năm 1938, Keres với số điểm 8½/14 cùng [[Reuben Fine]] chia sẻ vị trí số một tại [[giải AVRO]] tổ chức tại nhiều thành phố khác nhau ở Hà Lan, xếp trên những danh thủ lẫy lừng như [[Mikhail Botvinnik]], [[Max Euwe]], [[Samuel Reshevsky|Reshevsky]], [[Alexander Alekhine|Alekhine]], [[José Raúl Capablanca|Capablanca]] và [[Salo Flohr|Flohr]]. AVRO là một trong số những giải đấu quy tụ nhiều kỳ thủ mạnh nhất trong lịch sử, nhiều nhà sử học về cờ vua cho rằng nó là giải đấu hàng đầu về chất lượng các kỳ thủ tham dự từng được tổ chức. Keres vượt qua Fine sau hai ván ở loạt tiebreak với tỉ số 1½–½.
 
Theo dự kiến kỳ thủ giành chiến thắng ở giải đấu này sẽ thách thức danh hiệu vô địch thế giới trong một trận đấu với nhà đương kim vô địch Alexander Alekhine. Tuy nhiên, sự bùng nổ của ChiếnThế tranh thế giớichiến thứ hai, đặc biệt là việc Liên Xô chiếm đóng Estonia lần đầu trong các năm 1940–1941 đã đẩy các cuộc đàm phán với Alekhine đến chỗ chấm dứt. Kể từ năm 1937 Keres bắt đầu việc học đại học, đây cũng là một phần nguyên nhân khiến trận đấu với Alekhine không thể diễn ra.
 
Keres gặp khó tại giải [[Leningrad]]–Moscow 1939 khi cùng chia sẻ vị trí thứ 12–13 chung cuộc; ông phân trần rằng mình không có đủ thời gian chuẩn bị cho một giải đấu hàng đầu như vậy, nơi mà lần đầu tiên ông phải đối mặt với rất nhiều danh thủ cờ vua Liên Xô. Tuy nhiên sau đó nhờ có nhiều thời gian chuẩn bị hơn Keres có sự trở lại với chiến thắng tại giải Margate trong cùng năm với điểm số 7½/9 (+6 −0 =3), xếp trên Capablanca và Flohr.<ref name="chessmetrics">http://www.chessmetrics.com, the Paul Keres results file</ref>
 
==ChiếnThế tranh thế giớichiến thứ hai==
Vào thời điểm [[ChiếnThế tranh thế giớichiến thứ hai]] bùng nổ, Keres đang tham dự giải Olympiad ở [[Buenos Aires]]. Sau Olympiad, Keres tiếp tục ở lại để tham dự giải quốc tế Buenos Aires, giải đấu mà ông đã cùng [[Miguel Najdorf]] chia sẻ vị trí số một với điểm số 8½/11 (+7 −1 =3).
 
Quãng thời gian từ tháng 12 năm 1939 đến tháng 1 năm 1940 Keres có trận đấu kéo dài 14 ván với nhà cựu vô địch thế giới [[Max Euwe]] diễn ra ở Hà Lan. Kết quả Keres giành chiến thắng vất vả với tỉ số 7½–6½ (+6 −5 =3). Đây là một thành tích tuyệt vời, không chỉ vì Euwe từng là nhà vô địch thế giới, mà vì ông còn là một đối thủ dày dạn kinh nghiệm trong các trận đấu, hơn hẳn so với Keres.
Dòng 47:
 
==Hoàn cảnh hiểm nguy==
Sống tại một khu vực chịu tác động trực tiếp của [[ChiếnThế tranh thế giớichiến thứ hai]], Keres ở vào tình cảnh nguy hiểm. Trong cuộc chiến, quê hương Estonia của ông ban đầu bị Liên Xô chiếm đóng, rồi tới Đức, rồi một lần nữa là Liên Xô. Vào thời điểm Keres ra đời năm 1916, quốc gia này chịu sự quản lý của người Nga, nhưng tiếp sau là một giai đoạn độc lập giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
 
Trong thời kỳ chiến tranh, Keres có tham dự một số giải đấu ở các vùng lãnh thổ châu Âu do Đức chiếm đóng, bao gồm cả các giải do Đức Quốc xã tổ chức (Tallinn, Salzburg, Munich 1942; Prague, Posen, Salzburg, Reval 1943). Khi Liên Xô tái chiếm Estonia vào năm 1944, Keres nỗ lực chạy trốn sang Tây Âu nhưng bất thành. Cuộc phỏng vấn với một tờ báo Đức năm 1942 của Keres đã được Đức Quốc xã sử dụng để tuyên truyền chống Liên Xô. Hậu quả là Keres bị các nhà chức trách Liên Xô nghi ngờ và chất vấn về mối quan hệ giữa ông và những người Quốc xã.<ref>Heuer, Valter, “The Troubled Years of Paul Keres, the Great Silent One”, New In Chess #4, 1995, Amsterdam, Holland; Jan Timman, editor.</ref> Keres tìm cách tránh khỏi việc bị trục xuất hay bất kỳ tình cảnh tồi tệ nào khác; tuy nhiên có thể ông đã bị bắt giam, rất khó để xác định những thông tin chính xác.<ref>''Paul Keres' Best Games Volume 1 – Closed Games'', by Egon Varnusz, Cadogan Chess, London 1994, introduction</ref>