| tên= Trần Văn Hai
| ngày sinh= 1925
| ngày mất= 301-45-1975
| nơi sinh= Gò Công
| nơi mất= Mỹ Tho
| hình= [[Tập tin: Tranvanhai.jpg|170px]]
| thuộc= [[Tập tin: GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1952-1975
| cấp bậc= [[Tập tin: US-O7 insignia.svg|12px15px]] [[Chuẩn tướng]]
| đơn vị= Bộ chỉ huy Biệt động quân<br/>Quân đoàn II<br/>Sư đoàn 7 Bộ binh
| chỉ huy= Quân đội Quốc gia<br/>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| công việc khác= Tỉnh trưởng<br/>Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia
}}
'''Trần Văn Hai''' (1925-1975), nguyên là một tướng lĩnh bộ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia Việt Nam. Trong suốt thời gian tại ngũ, ông đã phụcgiữ những chức vụ nhiềuở các lĩnh vực khác nhau như: Tỉnh trưởng, Chỉ huy trưởng Binh chủng, đứngTổng đầuGiám ngànhđốc Cảnh sát Quốc gia, Chỉ huy trưởng Huấn khu và Tư lệnh Sư đoàn bộ binh...
Ông là một trong năm tướng lĩnh đã tuẫn tiết trong [[sự kiện 30 tháng 4 năm 1975|sự kiện 30 tháng 4, 1975]].
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
Ông sinh vào tháng Giêng năm [[1925]] tại [[Gò Công]]. Tốt nghiệp Trung học phổ thông chương trình Pháp tại Mỹ Tho với văn bằng Tú tài 1bán phần (Part I). Sau đó, ông được tuyển dụng làm Công chức cho Chính quyền Bảo hộ tại Mỹ Tho.
NămCuối tháng 4 năm 1952:, Thithi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]], mang số quân: 45/102.692. Theo học khoákhóa 7 Ngô Quyền tại Trườngtrường Võ bị Liên quân Đà Lạt, ''(khai giảng: ngày 1/ tháng 5/1952, mãnnăm khoá:1952. Ngày 25/ tháng 2/ năm 1953)'', mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch. Ra trường, ông được điều đi phục vụ Tiểu đoàn 4 Việt Nam do Thiếu tá Đặng Văn Sơn làm Tiểu đoàn trưởng
*:''(Tiểu đoàn 4 Việt Nam thành lập ngày 15/10/1952 tại Hưng Yên do Đại úy Trần Văn Cường làm Tiểu đoàn trưởng đầu tiên).
NămSau 1954:ngày Sauký hiệp định Genėve (20 tháng 7), ông được thăng cấp [[Trung úy]] phục vụ tại Phòng 2 thuộc Đệ tứ Quân khu Cao nguyên do Đại úy Đặng Hữu Hồng làm trưởng phòng. ▼
▲Năm 1954: Sau hiệp định Genėve, ông được thăng cấp [[Trung úy]] phục vụ tại Phòng 2 thuộc Đệ tứ Quân khu Cao nguyên do Đại úy Đặng Hữu Hồng làm trưởng phòng.
==Quân đội Việt Nam Cộng hoà==
NămCuối tháng 10 năm 1955:, sau Khikhi nền Đệ nhất Cộng hoàhòa ra đời, ông được cử làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 262 đóng tại Ninh Hoà, [[Khánh Hoà]]. CuốiTháng 12 cuối năm nàyông được thăng cấp [[Đại úy]] giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 81 Địa phương đồn trú tại [[Phan Thiết]].
Năm 1961: Đầu tháng 8 năm 1961, ông là một trong những người thành lập Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ do Thiếu tá Vĩnh Biểu làm Chỉ huy trưởng đầu tiên.
NămGiữa năm 1962:, ông được Ôngcử nhậngiữ chức Trưởng khoa Hành quân kiêm Huấn luyện viên lớp "Biệt động Rừng núi sình lầy". Qua đầu năm 1963, ông được lên chức Trưởng khối Huấn luyện Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ. Tháng 8 cùng năm, ông được lênthăng cấp [[Thiếu tá]] tại nhiệm.
NămĐầu năm 1965:, Ôngông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng tỉnh [[Phú Yên]] thay thế Trung tá Phạm Anh. Ngày 1/ tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp [[Trung tá]] tại nhiệm. chứcCuối năm 1967, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm.
Hạ tuần tháng 3 năm 1968, ông được lệnh bàn giao chức Tỉnh trưởng Tỉnh Phú Yên lại cho Trung tá Nguyễn Văn Bá. Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Biệt động quân Trung ương. Đầu tháng 6 cùng năm, ông bàn giao Bộ chỉ huy Biệt động quân lại cho Trung tá Trần Công Liễu. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng giám đốc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn Ngọc Loan]] được đề cử giữ chức vụ Thanh tra Bộ Quốc phòng.
Qua cuối năm 1967, ông được thăng cấp [[Đại tá]] nhiệm chức.
Tháng 7 năm 1970, ông được vinh thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm . chứcSau đó, sauông đóđược lệnh bàn giao chức vụ Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia lại cho Thiếu tướng [[Trần Thanh Phong]], để đi nhận chức Tư lệnh Biệt khu 44 ''(gồm 4 tỉnh: Kiến Tường, Kiến Phong, Châu Đốc và An Giang) ''. ▼
Năm 1968: Hạ tuần tháng 3, ông được lệnh bàn giao chức Tỉnh trưởng Tỉnh Phú Yên lại cho Trung tá Nguyễn Văn Bá.
NămĐầu năm 1972 :, Đầuthuyên nămchuyển ra Quân khu 2, ông được cử làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. ThángĐầu tháng 7 cùng năm ông được chuyểnchỉ điđịnh làmgiữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ thay thế Chuẩn tướng [[Võ Văn Cảnh]] đượcchuyển thuyên chuyểnđi làm Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế , Nha Trang. ▼
Qua đầu tháng 4, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy biệt động quân Trung ương. Đầu tháng 6, ông bàn giao Bộ chỉ huy Biệt động quân lại cho Trung tá Trần Công Liễu.
NgayCuối sautháng 10 năm 1974, ông được lệnh bàn giao Quân trường Lam Sơn & Huấn khu Dục Mỹ lại cho Đại tá Nguyễn Hữu Toán. Sau đó, ông được bổ nhiệm vào chức vụ TổngTư giámlệnh đốc[[Sư Tổngđoàn nha7 CảnhBộ sátbinh QuốcQuân gialực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 7 bộ binh]] thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn NgọcKhoa LoanNam]] được đềlên cửlàm giữTư chứclệnh vụQuân Thanhđoàn traIV Bộ& Quân Quốckhu phòng4.
▲Tháng 7 năm 1970, ông được vinh thăng [[Chuẩn tướng]] nhiệm chức, sau đó bàn giao chức Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia lại cho Thiếu tướng [[Trần Thanh Phong]], để đi nhận chức Tư lệnh Biệt khu 44 ''(gồm 4 tỉnh: Kiến Tường, Kiến Phong, Châu Đốc và An Giang)''.
Trước [[sự kiện 30 tháng 4 năm 1975|sự kiệnngày 30 tháng 4 , 1975]] khoảng hơn một tuần, đích thân Tổng thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn tướngđón Haiông di tản nhưng ông từ chối.<ref name="tvh"/> ▼
Chiều ngày [[30 tháng 4]] năm [[1975]], sau khi cho binh sĩ rời quân ngũ theo lệnh của [[Tổng thống]] [[Dương Văn Minh]], nửa đêm về sáng ngày 1 / tháng 5 /1975 ông đã dùng thuốc Optalidon ''(uống nguyên ống 20 viên)'' tự vẫn trong phòng làm việc tại căn cứ Đồng Tâm, [[Mỹ Tho]]. Thi thể ông được Thân mẫu và bào đệ đem về mai táng tại Nghĩa trang Chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn vào ngày 2 / tháng 5 / năm 1975. ▼
▲Năm 1972: Đầu năm, ông được cử làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. Tháng 7 cùng năm ông được chuyển đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ thay thế Chuẩn tướng [[Võ Văn Cảnh]] được thuyên chuyển làm Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế.
Tướng Trần Văn HaiÔng được đánh giá là một tướng thanh liêm, chăm lo tốt đời sống binh sĩ thuộc quyền.<ref name="tvh">[http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=22925]</ref> ▼
Năm 1974: Cuối tháng 10, ông được lệnh bàn giao Quân trường Lam Sơn & Huấn khu Dục Mỹ lại cho Đại tá Nguyễn Hữu Toán. Đầu tháng 11, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn Khoa Nam]] lên làm Tư lệnh Quân đoàn IV & Quân khu 4.
==Gia đình==
▲Trước [[sự kiện 30 tháng 4 năm 1975|sự kiện 30 tháng 4, 1975]] khoảng hơn một tuần, đích thân Tổng thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn tướng Hai di tản nhưng ông từ chối.<ref name="tvh"/>
* Phu nhân: Bà Phạm Thị Cúc.
▲Chiều ngày [[30 tháng 4]] năm [[1975]], sau khi cho binh sĩ rời quân ngũ theo lệnh của [[Tổng thống]] [[Dương Văn Minh]], nửa đêm về sáng ngày 1/5/1975 ông đã dùng thuốc Optalidon ''(uống nguyên ống 20 viên)'' tự vẫn trong phòng làm việc tại căn cứ Đồng Tâm, [[Mỹ Tho]]. Thi thể ông được Thân mẫu và bào đệ đem về mai táng tại Nghĩa trang Chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn ngày 2/5/1975.
:-Ông bà có 4 người con gồm 3 trai, 1 gái.
▲Tướng Trần Văn Hai được đánh giá là một tướng thanh liêm, chăm lo tốt đời sống binh sĩ thuộc quyền.<ref name="tvh">[http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=22925]</ref>
==Xem thêm==
* [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
* [[Tướng lãnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa tự sát ngày 30/4/1975|Tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa tự sát]]
==Tham khảo==
* {{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=2011 |title=Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa |publisher=Hương Quê |isbn=978-0-9852-1820-1}} {{cần số trang}}
[[Thể loại:Sinh 1925]]]
{{tham khảo}}
[[Thể loại:Mất 1975]]
{{Tướng tự sát 30/4}}
{{Thời gian sống|1925|1975}}
[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Người Gò Công]]
|