Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Triệu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
{{xem thêm|Tượng quận}}
* '''Chiến tranh Tần-Việt''' (218-206 TCN)
[[Tập tin:Qin Empire in the south of Yangtze River (210 BC).png|nhỏ|phải|212px|Bản đồ các khu vực do [[nhà Tần]] chiếm được từ người [[Bách Việt]] sau năm 210 TCN.]]
[[Tập tin:Western Han Mawangdui Silk Map.JPG|nhỏ|phải|212px|Tấm bản đồ bằng lụa ở mộ số 3 [[Mã Vương Đôi]] mô tả hai nước [[Trường Sa (nước)|Trường Sa]] và Nam Việt.]]
[[Tập tin:Mawangdui Military Map.jpg|nhỏ|phải|212px|Bản đồ từ mộ số 3 [[Mã Vương Đôi]] đánh dấu các vị trí của quân đồn trú [[nhà Hán]] trong một cuộc tiến công Nam Việt năm 181 TCN.<ref>{{chú thích sách|last1 = Valerie Hansen|first1 = |ngày = 2000|tiêu đề = The Open Empire: A History of China to 1600 (Đế chế Mở: Lịch sử Trung Quốc đến năm 1600)|địa điểm = New York (Hoa Kỳ) và Luân Đôn (Vương quốc Anh)|nơi xuất bản = W.W. Norton & Company|ISBN = 0-393-97374-3|trang = 125}}</ref>]]
Sau khi [[Tần Thủy Hoàng]] [[Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần|thống nhất 6 vương quốc cổ]] là [[Hàn]], [[Triệu]], [[Ngụy]], [[Sở]], [[Yên]], [[Tề]], ông bắt đầu hướng sự chú ý sang các bộ lạc người [[Hung Nô]] ở phía bắc và [[Bách Việt]] ở phía nam. Khoảng năm 218 TCN, [[Tần Thủy Hoàng]] sai tướng [[Đồ Thư]] cùng 500.000 quân Tần chia làm 5 đạo tấn công các bộ lạc [[Bách Việt]] ở vùng đất [[Lĩnh Nam]].
* Đạo thứ nhất hợp binh ở Dư Can (nay là huyện [[Dư Can]], tỉnh [[Giang Tây]]) và đánh chiếm [[Mân Việt]] lập ra quận Mân Trung.
* Đạo thứ nhì được tăng cường thêm tại Nam Dã (nay là huyện cấp thị [[Nam Khang]], tỉnh [[Giang Tây]]) nhằm buộc các dân tộc Việt ở phía nam phải phòng thủ.
* Đạo thứ ba đánh chiếm [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]].
* Đạo thứ tư đồn trú gần [[núi Cửu Nghi]] ([[chữ Hán]]: 九嶷山).
* Đạo thứ năm đóng bên ngoài Đàm Thành (镡城, phía tây nam [[Tĩnh Châu]], tỉnh [[Hồ Nam]] ngày nay)<ref name=HNT />.
[[Tần Thủy Hoàng]] sai viên quan [[Sử Lộc]] (史禄) giám sát việc cung cấp hậu cần. Đầu tiên Sử Lộc chỉ huy một nhóm quân vượt qua [[kênh Hưng An]] (nối liền [[sông Tương|Tương giang]] và [[sông Li|Li giang]]), sau đó dùng thuyền vượt [[sông Dương Tử]] và [[sông Châu Giang]] tìm được con đường an toàn tiếp tế lương thực cho quân [[nhà Tần|Tần]]. Quân Tần sau đó tấn công [[Âu Việt]], thủ lĩnh của [[Âu Việt]] là [[Dịch Hu Tống]] (譯吁宋) bị giết. Tuy nhiên, [[Âu Việt]] vẫn phản kháng. Họ trốn vào rừng và bầu ra một thủ lĩnh mới là [[Kiệt Tuấn]] (桀駿) để tiếp tục chống lại quân Tần. Sau đó một cuộc tấn công vào ban đêm của [[Âu Việt]] đã gây thiệt hại nặng cho quân Tần, tướng [[Đồ Thư]] bị giết cùng khoảng 10 vạn quân<ref name=HNT>Lưu An, [http://zh.wikisource.org/wiki/%E6%B7%AE%E5%8D%97%E5%AD%90/%E4%BA%BA%E9%96%93%E8%A8%93 Hoài Nam tử: quyển 18 - Nhân gian huấn], nguyên tác: 又利越之犀角、象齒、翡翠、珠璣,乃使尉屠睢發卒五十萬,為五軍,一軍塞鐔城之嶺,一軍守九疑之塞,一軍處番禺之都,一軍守南野之界,一軍結餘干之水,三年不解甲弛弩,使監祿無以轉餉,又以卒鑿渠而通糧道,以與越人戰,殺西嘔君譯吁宋。而越人皆入叢薄中,與禽獸處,莫肯為秦虜。相置桀駿以為將,而夜攻秦人,大破之,殺尉屠睢,伏尸流血數十萬。乃發適戍以備之。, Hán-Việt: Hựu lợi Việt chi tê giác, tượng xỉ, phỉ thúy, châu ki, nãi sử úy Đồ Tuy phát tốt 50 vạn, vi 5 quân, nhất quân tái Đàm Thành chi lĩnh, nhất quân thủ Cửu Nghi chi tái, nhất quân xử Phiên Ngu chi đô, nhất quân thủ Nam Dã chi giới, nhất quân kết Dư Can chi thủy, tam niên bất giải giáp thỉ nỗ, sử giám Lộc vô dĩ chuyển hướng, hựu dĩ tốt tạc cừ nhi thông lương đạo, dĩ dữ Việt nhân chiến, sát Tây ẩu quân Dịch Hu Tống. Nhi Việt nhân giai nhập tùng bạc trung, dữ cầm thú xử, mạc khẳng vi Tần lỗ. Tướng trí Kiệt Tuấn dĩ vi tướng, nhi dạ công Tần nhân, đại phá chi, sát úy Đồ Tuy, phục thi lưu huyết sổ thập vạn. Nãi phát thích thú dĩ bị chi.</ref>. Triều đình [[nhà Tần]] đã chọn [[Nhâm Ngao]] lên nắm quyền chỉ huy thay cho [[Đồ Thư]]. Năm 214 TCN, [[Tần Thủy Hoàng]] cử Nhâm Ngao chỉ huy quân tiếp viện tiếp tục tấn công. Lần này [[Âu Việt]] đã bị đánh bại hoàn toàn và phần lớn vùng [[Lĩnh Nam]] bị sáp nhập vào Tần. Cùng năm, nhà Tần lập ra các quận [[Nam Hải quận|Nam Hải]], [[Quế Lâm quận|Quế Lâm]], và [[Tượng quận]]. Nhâm Ngao được bổ nhiệm làm Quận úy Nam Hải. [[Nam Hải quận|Nam Hải]] được chia thành 4 huyện là [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]], [[Long Xuyên]], [[Bác La]] và [[Yết Dương]]. [[Triệu Đà]] được bổ nhiệm làm Huyện lệnh [[Long Xuyên]]. [[Tần Thủy Hoàng]] mất năm 210 TCN, con trai là [[Tần Nhị Thế|Hồ Hợi]] lên thay trở thành [[Tần Nhị Thế]]. Một năm sau, khởi nghĩa [[Trần Thắng]], [[Ngô Quảng]] nổ ra. Cuộc khởi nghĩa lan rộng khắp, toàn bộ khu vực sông [[Hoàng Hà]] rơi vào hỗn loạn. Các cuộc nổi dậy ngày càng mạnh khiến Tần Nhị Thế phải bãi binh ở [[Lĩnh Nam]]. Năm 208 TCN, Quận úy Nam Hải là [[Nhâm Ngao]] bị bệnh nặng, khi hấp hối mới gọi [[Triệu Đà]] đến, dặn phải giữ lấy miền [[Lĩnh Nam]] mà cát cứ. Vâng lời ông, Triệu Đà gửi lệnh đến quan quân các cửa ngõ Lĩnh Nam, canh giữ phòng chống quân Trung Nguyên xâm phạm, và nhân dịp đó, giết hết những người còn phò nhà Tần ở [[Lĩnh Nam]], cất đặt lại những người thân tín của mình.
* '''Vũ đế khai quốc''' (203-137 TCN)