Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quốc dân Cách mệnh Quân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 43:
[[Tôn Trung Sơn]] về danh nghĩa lãnh đạo chính phủ Hộ pháp quân ở Nam Trung Quốc, nhưng trên thực tế phải dựa vào thực lực quân sự của các quân phiệt phương Nam. Sau [[sự biến ngày 16 tháng 6]], khi quân phiệt [[Trần Quýnh Minh]] làm binh biến, tấn công phủ Tổng thống, Tôn hiểu rằng các quân phiệt luôn muốn duy trì tình trạng cát cứ, không muốn thống nhất, vì vậy, ông quyết định phải xây dựng một lực lượng vũ trang của riêng Quốc dân Đảng để làm nòng cốt quân sự vũ lực thống nhất Trung Quốc. Năm 1924, sau khi từ [[Liên Xô]] về, Tôn thành lập [[trường Quân sự Hoàng Phố]] tại [[Quảng Châu]]. Tháng 2 năm 1925, lực lượng vũ trang của Quốc dân Đảng với nòng cốt chỉ huy là các sĩ quan trường Hoàng Phố đã đánh bại quân phiệt Trần Quýnh Minh, triệt tiêu toàn bộ thế lực quân phiệt tại Quảng Đông, xây dựng căn cứ địa phát triển thế lực.
 
Sau khi [[Tôn Trung Sơn]] qua đời, tháng 7 năm 1925, Hộ pháp chính phủ tại Quảng Châu cải tổ lại thành Quốc dân chính phủ, quyết tâm thực hiện đường lối thống nhất Trung Quốc mà Tôn để lại, thành lập cơ quan lãnh đạo quân sự tối cao là [[Quốc dân Chính phủ Quân sự Ủy viên Hội]]. Ngày 18 tháng 8 năm 1925, Quân ủy hội ra quyết định giải thể cái đội quân địa phương, thống nhất danh xưng '''Quốc dân Cách mệnh Quân''', gọi tắt là '''Quốc quân''', tổ chức quân sự theo những nguyên tắc cơ bản của [[Chủ nghĩa Tam dân]], gần như hợp nhất các vai trò lãnh đạo nhà nước và quân đội vào tay Quốc dân Đảng. Ban đầu, lấy các đơn vị do sĩ quan xuất thân học viên trường Hoàng Phố là chủ lực, biên chế thành 6 đơn vị cơ bản gọi là Quân (tương đương [[quân đoàn]], đánh số từ 1 đến 6.<ref name="海">{{cite book|editor=辭海編輯委員會|title=《辭海》(1989年版)|year=1989|publisher=[[上海辭書出版社]]}}</ref> Trong đó, lực lượng của trường Hoàng Phố gọi là [[Quân đoàn I, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ nhất quân]], do Tưởng Giới Thạch làm Quân trưởng; Kiến quốc Tương quân (quân địa phương [[Hồ Nam]]) cải tổ thành [[Quân đoàn II, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ nhị quân]], Kiến quốc Điền quân (quân địa phương [[Vân Nam]]) cải tổ thành [[Quân đoàn III, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ tam quân]], Kiến quốc Việt quân (quân địa phương [[Quảng Đông]]) cải tổ thành [[Quân đoàn IV, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ tứ quân]], Phúc quân (quân địa phương [[Quảng Châu]], [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]] do [[Lý Phúc Lâm]] chỉ huy) cải tổ thành [[Quân đoàn V, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ ngũ quân]]. Tổ chức ở cấp quân đoàn, [[sư đoàn]] đều bắt chước tổ chức của Liên Xô, thành lập ban Chính trị bộ và chức vụ [[Chính ủy]] (gọi là Đại biểu Đảng).
 
Mặc dù có nòng cốt là các sĩ quan học viên Hoàng Phố, nhưng chính phủ Quốc dân chỉ mới khống chế được Quảng Châu, so thế lực với quân phiệt các tỉnh hãy còn kém xa. Vì vậy, để nhanh chóng tăng cường quân lực, chính phủ Quốc dân chủ trương tiếp thu thêm các lực lượng vũ trang địa phương. Tháng 1 năm 1926, sát nhập các lực lượng [[Công Ngạc quân]] của Hồ Nam, Cảnh vệ quân của [[Ngô Thiết Thành]], Triều Mai quân của Quảng Đông, thành lập [[Quân đoàn VI, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ lục quân]], do [[Trình Tiềm]] là Quân trưởng. Tháng 3, thu nạp thêm lực lượng quân phiệt Tân Quế hệ ở [[Quảng Tây]] cải tổ thành [[Quân đoàn VII, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ thất quân]], do [[Lý Tông Nhân]] làm Quân trưởng. Tháng 6, lực lượng quân phiệt Hồ Nam của [[Đường Sinh Trí]] bị [[Ngô Bội Phu]] đánh bại, quy phục chính phủ Quốc dân, được cải tổ thành [[Quân đoàn VIII, Quốc dân Cách mệnh Quân|Đệ bát quân]].
 
===Bắc phạt===
{{main|Bắc phạt (1926-1928)}}
 
Tháng 7 năm 1926, lực lượng Quốc dân Cách mệnh Quân bắc đầu chiến dịch Bắc phạt, với binh lực gồm 8 quân đoàn, ước tính tổng cộng 10 vạn quân.<ref name="海"/> Tưởng Giới Thạch đảm nhậm chức vụ Tổng tư lệnh, [[Lý Tế Thâm]] làm Tham mưu trưởng, [[Bạch Sùng Hy]] làm Phó tham mưu trưởng, [[Đặng Diễn Đạt]] làm Chủ nhiệm Chính trị bộ, [[Chu Ân Lai]] làm Phó chủ nhiệm Chính trị bộ. Bấy giờ, rất nhiều đảng viên Cộng sản giữ các chức vụ quan trọng trong Cách mệnh Quân, phát huy được vai trò cốt cán, tiên phong.<ref name="海"/>
[[Tập tin:Chiang1926.jpg|trái|nhỏ|[[Tổng thống lĩnh|Đại thống lĩnh]] [[Tưởng Giới Thạch]], Tổng tư lệnh Quốc dân Cách mệnh Quân, nổi lên từ cuộc chiến tranh Bắc phạt như là một nhà lãnh đạo của Trung Quốc.]]
Tháng 7 năm 1926, lực lượng Quốc dân Cách mệnh Quân bắc đầu chiến dịch Bắc phạt, với binh lực gồm 8 quân đoàn, ước tính tổng cộng 10 vạn quân.<ref name="海"/> Tưởng Giới Thạch đảm nhậm chức vụ Tổng tư lệnh, [[Lý Tế Thâm]] làm Tham mưu trưởng, [[Bạch Sùng Hy]] làm Phó tham mưu trưởng, [[Đặng Diễn Đạt]] làm Chủ nhiệm Chính trị bộ, [[Chu Ân Lai]] làm Phó chủ nhiệm Chính trị bộ. Bấy giờ, rất nhiều đảng viên Cộng sản giữ các chức vụ quan trọng trong Cách mệnh Quân, phát huy được vai trò cốt cán, tiên phong.<ref name="海"/> Ngoài ra, bên cạnh Tưởng Giới Thạch, còn có các chỉ huy Quốc dân Cách mệnh Quân nổi tiếng khác như [[Đỗ Duật Minh]] và [[Trần Thành (thủ tướng)|Trần Thành]].
[[Tập tin:Countermand_concession.jpg|trái|nhỏ|250x250px|Các binh sĩ Quốc dân Cách mệnh Quân tiến vào tô giới Anh ở [[Hán Khẩu]] trong cuộc [[Bắc phạt (1926-1928)|Bắc phạt]].]]
Ban đầu, quân Bắc phạt gồm các quân đoàn [[Quân đoàn IV, Quốc dân Cách mệnh Quân|IV]], [[Quân đoàn VII, Quốc dân Cách mệnh Quân|VII]], [[Quân đoàn VIII, Quốc dân Cách mệnh Quân|VIII]] theo các hướng Hồ Nam, Hồ Bắc tấn công quân phiệt [[Ngô Bội Phu]]. Các quân đoàn [[Quân đoàn II, Quốc dân Cách mệnh Quân|II]], [[Quân đoàn III, Quốc dân Cách mệnh Quân|III]], [[Quân đoàn VI, Quốc dân Cách mệnh Quân|VI]] tiến công bao vây [[Giang Tây]]. Tháng 12 năm 1926, Bộ TỔng tư lệnh Quốc dân Cách mệnh Quân dời đến Nam Xương,<ref name="年表,第12頁">陳-{布}-雷等編著,《蔣介石先生年表》,台北,傳記文學出版社,1978年6月1日,第12頁</ref> tháng 1 năm 1927 điều chỉnh lại chiến lược, quân đoàn VII tiến quân theo bờ trái sông Trường Giang, các quân đoàn II, VI tiếng theo bờ phải tấn công Giang Tây. [[Quân đoàn I, Quốc dân Cách mệnh Quân|Quân đoàn I]] và III cùng tấn công [[Chiết Giang]], tiến lên [[Thượng Hải]]. Đến tháng 4, chủ lực của quân phiệt [[Tôn Truyền Phương]] bị đánh bại. Cuộc chiến Bắc phạt của Cách mệnh Quân xem như giành được thắng lợi ban đầu.<ref name="海"/>
 
Ngày [[26 tháng 4]] năm 1927 phát sinh sự kiện [[Ninh Hán phân liệt]], chính phủ Quốc dân bị chia rẽ thành chính phủ tại Vũ Hán do [[Uông Tinh Vệ]] lãnh đạo và chính phủ tại Nam Kinh do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Sự kiện này, cùng với việc thanh trừng các đảng viên Cộng sản trong nội bộ Quốc dân Đảng và Quốc dân Cách mệnh Quân đã làm hao tổn nguyên khí, cuộc chiến Bắc phạt bị chững lại, khơi mào cho quá trình tranh chấp vũ trang Quốc - Cộng. Hệ thống Đại biểu Đảng và Chính trị bộ bị bãi bỏ. Phía [[Trung Hoa Cộng sản Đảng]] lên án các hành vi thanh trừng và chỉ trích Quốc dân Cách mệnh Quân là "Tân quân phiệt".
Bên cạnh Tưởng Giới Thạch, còn có các chỉ huy Quốc dân Cách mệnh Quân nổi tiếng khác như [[Đỗ Duật Minh]] và [[Trần Thành (thủ tướng)|Trần Thành]].
 
Sau cuộc thanh trừng, mâu thuẫn nội bộ Quốc dân Đảng tạm thời được dàn xếp khi vào tháng 7, Uông Tinh Vệ tuyên bố quy phục chính phủ của Tưởng tại Nam Kinh. Đáp lại, tháng 8, Tưởng tuyên bố từ chức Tổng tư lệnh Bắc phạt. Nhân cơ hội, Tôn Tuyền Phương thừa cơ phản công, nhưng bị Lý Tông Nhân, [[Hà Ứng Khâm]], Bạch Sùng Hy đánh bại. Nhận thấy ngoài Tưởng không ai có thể nhận vai trò Tổng tư lệnh, chính phủ Quốc dân một lần nữa mời Tưởng vào chức vụ Tổng tư lệnh. Tháng 1 năm 1928, Tưởng phục chức, tiếp tục chiến dịch Bắc phạt, với sự hợp tác của Quốc dân Quân của quân phiệt [[Phùng Ngọc Tường]] và Cách mệnh Quân của quân phiệt [[Diêm Tích Sơn]]. Lực lượng Quốc dân Cách mệnh Quân được tổ chức tăng cường lên thành 4 [[tập đoàn quân]], lần lượt do Tưởng Giới Thạch, Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn và Lý Tông Nhân làm Tư lệnh. Tháng 6, quân phiệt [[Trương Tác Lâm]] thối xuất ra ngoài [[Sơn Hải quan]], bị người Nhật kích bom giết chết. Quốc dân Cách mệnh Quân tiến vào [[Bắc Kinh]]. Tháng 12, [[Trương Học Lương]] tuyên bố "Đông Bắc trở cờ", quy phục chính phủ Quốc dân. Bắc phạt được xem là đã kết thúc. Mặc dù thời điểm này xem là kết thúc [[thời kỳ Quân phiệt]], nhưng ở quy mô nhỏ hơn, các lãnh chúa quân phiệt vẫn tiếp tục hoạt động cho đến hết thập kỷ 1940.
Sự kết thúc của cuộc chiến Bắc phạt năm 1928 thường được xem là kết thúc thời kỳ Quân phiệt, dù ở quy mô nhỏ hơn, các lãnh chúa quân phiệt vẫn tiếp tục hoạt động cho đến hết thập kỷ 1940.
 
===Hiện đại hóa quân đội===
Năm 1927, sau khi sự [[hợp tác Quốc - Cộng]] lần thứ nhất tan vỡ, quyết sách của các lãnh đạo Quốc dân đảng là thanh trừng các thành viên cánh tả và chủ yếu là loại bỏ ảnh hưởng của Liên Xô ngay cả trong hàng ngũ của mình. Tưởng Giới Thạch sau đó quay lại nhờ đến sự giúp đỡ của người [[Đức]], vốn có một lịch sử quân sự hùng mạnh, để tổ chức lại và hiện đại hóa các đơn vị Quốc dân Cách mệnh Quân. Chính quyền [[Cộng hòa Weimar]] đã gửi các cố vấn đến Trung Quốc, nhưng vì các hạn chế bởi những điều khoản của [[Hòa ước Versailles]], họ không thể phục vụ trong quân đội. Tưởng ban đầu yêu cầu các tướng lĩnh nổi tiếng như [[Erich Ludendorff|Ludendorff]] và [[August von Mackensen|von Mackensen]] làm cố vấn; nhưng chính quyền Cộng hòa Weimar đã bác bỏ yêu cầu này vì lo ngại sự nổi tiếng của họ sẽ làm mất lòng các quốc gia Đồng Minh.
 
Hàng 68 ⟶ 70:
 
== Cấu trúc ==
 
[[Tập tin:Countermand_concession.jpg|trái|nhỏ|250x250px|Các binh sĩ Quốc dân Cách mệnh Quân tiến vào tô giới Anh ở [[Hán Khẩu]] trong cuộc [[Bắc phạt (1926-1928)|Bắc phạt]].]]
Cơ quan lãnh đạo tối cao của Quốc dân Cách mệnh Quân là [[Quốc dân Chính phủ Quân sự Ủy viên hội]] (''國民政府軍事委員會''), gọi tắt là Quân ủy Hội. Dưới sự chủ trì của Tưởng Giới Thạch, nó chỉ đạo trực tiếp các hoạt động chỉ huy và tham mưu. Đến năm 1937, [[Bộ Tổng tham mưu Quốc quân Trung Hoa Dân quốc|Bộ Tổng tham mưu]] được thành lập dưới sự lãnh đạo của [[Tổng tham mưu trưởng Quốc quân Trung Hoa Dân quốc|Tổng tham mưu trưởng]], tướng [[Hà Ứng Khâm]], trở thành cơ quan giúp việc của Quân ủy Hội, chỉ đạo các lực lượng trên không, trên biển và trên bộ của Quốc dân Cách mệnh Quân.