Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lư Giang (trung tướng)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 3, replaced: NXB → Nhà xuất bản (2) using AWB
Dòng 4:
'''Lư Giang''' tên thật là ''Lê Bá Ước'', sinh ngày 14 tháng 12 năm [[1920]] tại làng Gàng, xã Vô Tranh, [[Lục Ngạn|Lục]] lam, [[Bắc Giang]], trong một gia đình giàu có.
 
Năm [[1940]] ông bỏ học về làm thư ký xưởng khai thác gỗ trong rừng, vì vậy có điều kiện tiếp xúc với nhiều tầng lớp trong xã hội và đi nhiều nơi như: [[Đình Lập]], [[Lạng Sơn]], [[Bắc Giang]], [[Hà Nội]].
 
Cuối năm [[1942]] được ông [[Hải Bằng]] kết nạp vào [[Việt Minh]].
 
Đến cuối Năm [[1944]], ông đã tổ chức được đội tự vệ gồm hơn 10 người có trang bị [[súng Kíp]], [[súng Dóp]] 3, [[súng Dóp]] 4.
Dòng 12:
Sau ngày 9 tháng 3 năm [[1945]], Nhật đảo chính Pháp. Với lực lượng của mình Lư Giang đã tổ chức đóng giả lính Nhật tập kích vào đồn Mai Sưu, rồi sau đó ông còn tổ chức phá kho thóc thu về 400 tấn cứu đói cho dân.
 
Ngày 21 thánh 8 năm [[1945]], [[Bắc Giang]] khởi nghĩa, ông được giao chỉ huy một đại đội thuộc chi đội 2 Bắc Giang. Sau đấy cũng là thời kỳ quân Tưởng Giới Thạch dưới danh nghĩa quân Đồng Minh vào Việt Nam.
 
Ngày 5 tháng 9 năm 1945 ông chỉ huy quân đánh và đã chiếm được đồn Chũ.
 
Tháng 10 năm 1945 ông được đề cử làm chi đội phó chi đội Bắc Giang. Sau đó tham gia tiễu phỉ ở [[Hố Lác]], [[Tam Di]], [[Lục Nam]]
Dòng 40:
Ông còn là [[đại biểu Quốc hội]] khóa 7, khóa 8 và là Ủy viên Ủy ban pháp luật của Quốc hội khóa 8.
 
Ông mang hàm Thiếu tướng năm [[1974]], Trung tướng năm [[1984]] và nghỉ hưu năm [[1989]] <ref>Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Chi đội Bắc Bắc Nam tiến, NXBNhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2003, trang 180 - 184</ref>
 
==Ghi nhận của nhà nước Việt Nam về thành tích và công lao==
Dòng 55:
Ba Huân chương Chiến sĩ giải phóng (hạng nhất, hạng nhì, hạng ba)
 
Huy chương Quân kỳ quyết thắng.<ref>Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Chi đội Bắc Bắc Nam tiến, NXBNhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2003, trang 184</ref>
 
==Chú thích==