Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khalip”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đây là bài riêng, được phân tích
Dòng 1:
'''Khalip''' (tiếng Ả Rập {{Audio|Ar-khalifa.ogg|خليفة '''Khalīfah'''}}, tiếng Anh: '''caliph''', tiếng Pháp: '''calife''') là vị chức sắc cao nhất đối với tín đồ [[Hồi giáoIslam]] trên thế giới. Trong nhiều thế kỷ, chức '''khalip''' cũng giữ vai trò '''nhàhoàng vua'''đế chung của tất cả các nước mà Hồi giáoIslam là quốc đạo.
 
Về mặt tôn giáo, so với chức [[giáo hoàng]] của [[Thiên Chúa giáo]] thì chức '''khalip''' có ít quyền hơn, chẳng hạn như không có quyền phong thánh. '''Khalip''' cũng không được phép sửa đổi giáo điều hay giáo luật nên gọi là « giáo chủ » cũng không được thích hợp lắm.
Giới học giả [[Việt Nam]] vốn chưa quan tâm nhiều đến lịch sử các quốc gia Hồi giáo, mà các tự điển thường thức Âu Mỹ cũng không định nghĩa rõ ràng hoặc đúng lắm, nên trong các tự điển Anh-Việt, Pháp-Việt, danh từ caliph/calife thường được dịch là « quốc vương », « vua » hoặc đôi khi là « hoàng đế » kèm thêm « ở 'một' nước Hồi giáo » hay « ở 'các' » nước Hồi giáo”. Trong các tình huống thông thường, cách dịch này thỏa mãn nhu cầu của người dùng tự điển.
 
NhưngGiới đểhọc tìm hiểu lịch sử các nước nhưgiả [[AiViệt CậpNam]], [[Syria]],vốn [[Iraq]],chưa [[Iran]],quan [[Matâm Rốc]]... trong giai đoạn từ thế kỷ 7nhiều đến thếlịch kỷsử 13các hoặcquốc saugia nữaIslam, thì các danhtự từđiển nàythường dễthức làmÂu hiểuMỹ lầmcũng mộtkhông sốđịnh sựnghĩa kiện. Nhấtràng hoặc vàođúng nhữnglắm, giainên đoạntrong các vừatự điển '''khalip'''Anh-Việt, vừa có [[sultan]]Pháp-Việt, danh từ 'sultan' cũngcaliph/calife thường được các tự điển dịch là « hoàngquốc đếvương », « quốc vươngvua », hoặc đôi khi là « vuahoàng đế » kèm thêm « ở Thổ Nhĩ'một' Kỳnước Hồi giáo », hay « ở 'các' » nước Hồi giáo »giáo”. Trong các tình huống thông thường, cách dịch này thỏa mãn nhu cầu của người dùng tự điển.
 
Nhưng để tìm hiểu lịch sử các nước như [[Ai Cập]], [[Syria]], [[Iraq]], [[Iran]], [[Ma Rốc]], v.v... trong giai đoạn từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13 hoặc sau nữa, thì các danh từ này dễ làm hiểu lầm một số sự kiện. Nhất là vào những giai đoạn mà vừa có '''khalip''', vừa có [[sultan]], mà danh từ 'sultan' cũng thường được các tự điển dịch là « hoàng đế », « quốc vương », « vua » kèm thêm « ở Thổ Nhĩ Kỳ », hay « ở các nước Hồi giáo ».
Trong mô hình [[phong kiến]] các nước Hồi giáo xưa:
 
* Chức [[êmia]] là một vua chư hầu nhỏ, cai quản một hay vài thành trì.
Mô hình [[phong kiến]] ở các xứ Islam xưa có thể so sánh với mô hình phong kiến [[Trung Quốc]] thời [[Đông Chu]] và thời [[Hán Sở Tranh Hùng]], trong đó:
* Chức [[sultan]] thống lĩnh nhiều 'êmia'.
* Chức [[êmia]] là một vua chư hầu nhỏ, cai quản một hay vài thành trì.
* Chức [[sultan]] thống lĩnh nhiều 'êmia'., như chức “bá hầu” hay “bá vương” ở Trung Quốc.
* Chức '''khalip''' cao nhất.
 
Hàng 22 ⟶ 24:
 
== Nguồn gốc tên gọi ==
Danh từ خليفة '''Khalīfah''' tiếng Ả Rập có nghĩa là « người đại diện » hoặc « người nối nghiệp ». Sau khi thánh [[Muhammad]] của đạo HồiIslam qua đời, những người nối nghiệp của ông được gọi là « Khalifat Rasul Allah », nghĩa là « Người đại diện/nối nghiệp khâm sai của Thượng Đế », lâu ngày gọi tắt thành '''Khalīfah''', người Âu Châu gọi trại thành caliph/calife.
 
== Các tên gọi khác ==
Hàng 30 ⟶ 32:
* ''[[Imam]] al-Mu'minīn'' (إمام المؤمنين) « Người dẫn dắt các tín đồ ».
 
Riêng cụm từ « Amir al-Mu'minin » rất được thông dụng trong tác phẩm «[[Nghìn lẻ một đêm]]» khi thần dân gọi '''khalip'''. Cụm từ này thường được dịch sang [[tiếng Anh]] là «Commander of the Believers», [[tiếng Pháp]] là «Commandeur des croyants», và [[tiếng Việt]] là «NgườiĐấng dẫnThống dắtlĩnh các tín đồ».
 
== Những triều đại khalip ==
Hàng 36 ⟶ 38:
Bốn vị khalip đầu tiên được coi là « chính thống » vì được đa số chi phái công nhận. Danh từ « chính thống » dịch từ chữ 'orthodox' thường dùng trong tiếng Anh hoặc Pháp. Trong tiếng Ả Rập họ được gọi là « Rashidun »<ref> Danh từ « Rashidun » nay cũng thường thấy trong nhiều tài liệu tiếng Anh. </ref> (« được dẫn dắt đúng đắn ») vì được tin là những người tuân theo đúng kinh Koran, và làm đúng theo đường lối cư xử ('sunnah') của nhà tiên tri Muhammad của đạo Hồi. Bốn vị khalip ấy là:
* [[Abu Bakar]], cũng viết là Abu Bakr (632 - 634). Dưới thời của ông, phần lớn bán đảo Ả Rập nổi dậy tấn công kinh đô Medina, gọi là cuộc « chiến tranh Ridda ». Các thế lực này bị đánh bại, nhưng chiến tranh lan sang [[Đế quốc Ba Tư|Ba Tư]] và Đông La Mã ([[Byzantine]]).
* [[Omar bin Khattab]], cũng viết là Umar ibn al-Khattab (634 - 644). Ông quy định tổ chức các giáo hạt và khiến ghi chép thêm giáo luật Sharia. Thời này, quốc gia Hồi giáoIslam thắng Ba Tư và Đông La Mã, chiếm được các vùng lãnh thổ tương đương với Iraq, Iran, Syria, Jordan, Palestine, Ai Cập, Libya ngày nay.
* [[Othman bin Affan]], cũng viết là Uthman ibn Affan (644 - 656). Khalip Othman tổ chức công cuộc kết tập kinh Koran. Thời ông, quốc gia Islam sáp nhập toàn bộ đế quốc Ba Tư, mở rộng đến Uzbekistan, Kazakhstan, Turkmenistan ngày nay.
* [[Ali bin Abu Talib]], cũng viết là Ali ibn Abi Talib (656 - 661).
Hàng 56 ⟶ 58:
Từ thời [[nhà Omeyyad]] trở đi, do sự truyền ngôi theo phụ hệ, nhiều '''khalip''' chỉ là những ông vua thừa hưởng ngôi báu của cha ông, mà không có tác phong của một nhà lãnh đạo tinh thần. Chức '''khalip''' tuy có người xưng, và thường có tranh chấp, nhưng nhiệm vụ lãnh đạo giáo dân thì thực sự ít khi có ai làm.
 
=== Nhà AbbasAbbasid (750 -1258) ===
[[Image:Abbasids Dynasty 750 - 1258 (AD).PNG|thumb|right|200px|Bản đồ đế quốc [[nhà AbbasAbbasid]] vào lúc rộng lớn nhất]]
[[Nhà AbbasAbbasid]] nổi lên, đánh bại và thay thế nhà Omeyyad. Thời này đế quốc Ả Rập được một thời hoàng kim của thanh bình, thịnh trị và văn minh vào đời các '''khalip''' [[Al-Mansur]], [[Harun Al-Rashid]] và [[Al-Mamun]].
* Khalip [[Al-Mansur]] (754-775) cho xây thành phố [[BagdadBagkdad]] quy mô lên rồi dời đô về đấy năm 762. BagdadBaghdad trở thành thủkinh đô của các vị khalip trong một thời kỳ lâu dài nhất, gần 500 năm (762 - 1258), với những năm tháng huy hoàng rực rỡ nhất. Và do đó, nói đến các khalip thì người ta nói đến BagdadBaghdad, cũng như nói đến các giáo hoàng thì người ta nói đến [[La MãRoma]].
* Khalip [[Harun Al-Rashid]] (786-809) là vị ''khalip''' được đại chúng trên thế giới biết đến nhiều nhất qua nhiều truyện cổ tích trong « [[Nghìn lẻ một đêm]] ». Trong các truyện này, ông hay giả dạng thường dân đi xem xét dân tình.
* Khalip [[Al-Mamun]] (813-833) muốn kéo lại gần nhau hai hệ phái chính của Hồi giáoIslam là hệ Sunni (của dòng họ ông) và hệ Shia, nên ông đã lập di chúc truyền ngôi cho lãnh tụ hệ Shia là Ali Reza. Nếu việc này xảy ra êm đẹp thì nhà AbbasAbbasid đã chấm dứt lúc đó. Nhưng ông Ali Reza mất sớm, trong lúc khalip Al-Mamun còn trị vì, nên việc thừa kế đó đã không thành.
 
Thiếu người tài năng lãnh đạo, nhà AbbasAbbasid suy dần. Các quan tổng đốc tỉnh dần dần trở thành các triều đại cha truyền con nối, và thôn tính lẫn nhau. Ở một cấp bậc thấp hơn, các tiểu vương 'êmia' cũng ngày càng tự lập. Vào đầu thập niên 940, loạn lớn, nhà AbbasAbbasid tưởng đã mất ngôi, nhưng có ba anh em [[nhà BuyaBuyid]] đứng ra dẹp loạn và vãn hồi an ninh. Nhà BuyaBuyid được phong chức « Đại Êmia » và từ đó nắm thực quyền trong triều. Nhà AbbasAbbasid bị nhà BuyaBuyid thao túng như tình cảnh [[vua Lê]] [[chúa Trịnh]] ở Việt Nam.
 
Khoảng năm 1055, một thủ lĩnh người Thổ Nhĩ Kỳ là [[Toghrul Bey]] <ref>Cũng viết là Tugril Bek, T.ughrul Beg, và nhiều chữ đồng âm tưong tự.</ref>chinh phục được nhiều nước ở Trung Á, Afghanistan, Pakistan và Iran. Nhà AbbasAbbasid đón ông vào Bagdad, diệt nhà BuyaBuyid, và phong ông chức 'Sultan'. Từ đó chức 'sultan' giữ vai trò trên phò khalip, dưới thống lĩnh chư hầu. Tại Bagdad, các 'sultan' cũng kế tục các 'đại êmia' trong thói quen áp chế khalip.
 
Từ năm 1096, những lớp [[Thập Tự Quân]] từ Âu Châu sang chiếm nhiều vùng đất ở Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Lebanon và Palestine, và từ đó mở những cuộc tấn công vào Iraq và Ai Cập. Đến thập niên 1170, có ông [[Saladin]] thống nhất được Ai Cập, Palestine và Nam Syria và quy tụ được các chư hầu chống với Thập Tự Quân. Ông được khalip nhà AbbasAbbasid phong chức 'sultan'. Đến thập niên 1190, vua xứ [[Delhi]] miền bắc Ấn Độ cũng lấy chức 'sultan'.
 
Năm 1258, quân [[Mông Cổ]], do [[Húc Liệt Ngột]] (Hulagu) thống lĩnh, vào chiếm Baghdad và chấm dứt nhà AbbasAbbasid.
 
=== Nhà Hậu AbbasAbbasid (1261 - 1517) ===
Năm 1260, bước tiến của Mông Cổ bị 'sultan' xứ [[Ai Cập]] chận đứng trên đất Palestine trong [[trận Ain Jalut]]. Năm sau, một hậu duệ của nhà AbbasAbbasid là Ahmad được rước về tôn làm khalip ở [[Cairo]]. Nhà AbbasAbbasid lại tiếp tục được hơn 250 năm nữa. Nhiều sử gia gọi nhà AbbasAbbasid trong giai đoạn này là « triều đại bóng mờ ». Trong thời gian này, các vị khalip chỉ còn giữ vai trò về dẫn đầu nghi lễ và một ít vấn đề tôn giáo.
 
Năm 1517, 'sultan' [[Selimxứ I]]Thổ củaNhĩ Kỳ là [[đếSelim quốc OttomanI]] chiếm Ai Cập, và đem vị khalip cuối cùng của Cairo về thủkinh đô [[ConstantinopolisIstanbul]].
 
=== Đế quốcNhà Ottoman (1517 - 1924) ===
Nhà nước Ottoman ralập đờiquốc tại Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1299 và các vuaquốc trưởng xưng là 'sultan'. Họ nhanh chóng nêntrở thành một triều đại hùng mạnh, có lãnh thổ trên hai châu Á - Âu. [[Mehmed II]] (1451 - 1481) chiếm được Đông La Mã và đã tự xưng là khalip trong khi « triều đại bóng mờ » còn tồn tại ở Ai Cập. Nhưng đến 1517, tại Istanbul, khi Selim I ép vị khalip cuối cùng của nhà hậu AbbasAbbasid là [[Al-Mutawakkil III]] nhường ngôi cho thì chức khalip của nhà Ottoman mới được hợp thức hóa.
 
[[Image:Ottoman 1683.png|200px|thumb|Đế quốc nhà Ottoman năm 1683]]
 
Tuy nhiên, các vuanhà Ottoman không dùng tước hiệu khalip một cách liên tục. HọCác quốc trưởng của triều đại này dùng các tước hiệu [[Padishah]] (« Vương Chủ » theo tiếng Ba Tư) và « [[Đại Sultan]] » đều đặn hơn.
 
Theo học giả Barthold, lần đầu tiên chức khalip của nhà Ottoman được một thế lực lớn nước ngoài công nhận là năm 1774. Năm ấy, vuakhalip nhà Ottoman là [[Abdul Hamid I]] ký hoà ước với [[đế quốc Nga]], và nhượng cho đế quốc Cơ Đốc giáo này nhiều vùng đất đông tín đồ Hồi giáoIslam như [[Krym]] phía bắc [[Biển Đen]]. Bù lại, đế quốc Nga công nhận ông là người bảo vệ cho các tín đồ Hồi giáoIslam trên đất Nga.
 
Từ khoảng năm 1780, đế quốc Ottoman đã yếu so với các [[đế quốc]] Âu Châu, nhưng lại là thế lực độc lập mạnh nhất của người Hồi giáoIslam. Chức khalip của Abdul Hamid II được tín đồ Hồi giáoIslam tại Ai Cập, Ấn Độ và Trung Á công nhận.
 
Năm 19221924, nhàđế nướcchế Ottoman bị lậttruất đổphế, nước [[Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ]] ra đời. Ngày 3 tháng 3 năm 1924, tại Đại Hội Quốc Gia ('Turkish Grand National Assembly'), theo lệnh của tổng thống [[Mustafa Kemal Atatürk]], chức khalip bị tuyên bố bãi bỏ.
 
=== Sau 1924 ===
* [[AbdülmecidAbdulmecid II]] là vị khalip cuối cùng của nhà Ottoman, được coi là vị khalip thứ 101 kể từ khalip Abu Bakar. Ngày 23 tháng 8 năm 1944, ông qua đời tại tư gia ở Boulevard Suchet, Paris XVIe, [[Pháp]] (hai ngày trước khi quân Pháp trở về khôi phục [[Paris]] trong tay quân [[Đức Quốc Xã]]). Ông được an táng tại Medina, Ả Rập Saudi.
 
Từ 1924 đến nay, một số đoàn thể và cá nhân tín hữu Hồi giáoIslam vẫn kêu gọi sự tái lập chức vị khalip. <ref>Jay Tolson, “Caliph Wanted: Why An Old Islamic Institution Resonates With Many Muslims Today,” ''U.S News & World Report'' 144.1 (January 14, 2008): 38-40.</ref>
 
== Các triều đại khalip chỉ được thiểu số công nhận ==
Mặc dù tính cách chính thống của các triều đại sau đây, theo lẽ công bình, có thể không kém gì các triều đại kể trên, nhưng họ chỉ được số ít tín đồ Hồi giáoIslam và thế lực nước ngoài công nhận.
 
=== Nhà FatimaFatimid (909 - 1171) ===
Năm 909, thủ lĩnh [[Said ibn Husayn]] nổi lên ở Bắc Phi, xưng là khalip và là hậu duệ của nhà tiên tri [[Muhammad]] của đạo HồiIslam qua người con gái út tên là [[Fatima]]. Triều đại của ông lập ra do đó mang tên là [[nhà FatimaFatimid]]. Vài mươi năm sau, lãnh thổ nhà FatimaFatimid bao gồm Ma Rốc, Algeria, Tunisia, Libya, Ai Cập, Palestine, Syria và miền tây của bán đảo Ả Rập, trong đó có hai thánh địa chính của Islam là Mecca và Medina. Sau đó, nhà AbbasAbbasid chiếm lại được các đất ở châu Á, nhưng nhà FatimaFatimid vẫn giữ được Ai Cập và Bắc Phi.
 
Nhà FatimaFatimid ít được công nhận vì họ chống với nhà AbbasAbbasid, một triều đại đã lập lên từ hơn một thế kỷ trước và đã được lòng dân. Lý do quan trọng khác là họ thuộc phái IsmailIsmaili, một chi nhánh ít tín đồ trong hệ phái Shia, mà hệ Shia cũng chỉ chiếm khoảng 8 % trên tổng số tín đồ Hồi giáoIslam.
 
Nhà FatimaFatimid đã ra lệnh xây thành phố [[Cairo]] và đã có nhiều đóng góp cho nền văn minh thế giới.
 
=== Nhà Omeyyad ở Cordoba (929 - 1031) ===
Năm 750, một hoàng tôn của nhà Omeyyad, ông Abd-al-Rahman, thoát khỏi cuộc tàn sát của nhà AbbasAbbasid và sau một cuộc hành trình nhiều gian lao, ông đến được Tây Ban Nha. Tại đấy ông lập được một tiểu quốc năm 756 mà ông xưng là 'êmia' [[Abd-al-Rahman I]]. Năm 929, hậu duệ của ông là [[Abd-al-Rahman III]] xưng là khalip.
 
Triều đại này đóng đô tại Cordoba nên được gọi là [[nhà Omeyyad ở Cordoba]]. Một ít tài liệu cũng gọi là nhà [[Rahman]].