Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đường hầm Seikan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
D'ohBot (thảo luận | đóng góp)
Xqbot (thảo luận | đóng góp)
n robot Thay: eo:Seikan-Tunelo; sửa cách trình bày
Dòng 1:
{{Infobox tunnel
|name = Đường hầm Seikan<br />青函トンネル
|image = Seikantunnel - Tsugaru street detail.PNG
|caption = Bản đồ đường hầm Seikan.
Dòng 27:
'''Đường hầm Seikan''' (青函トンネル ''Seikan Tonneru'' hay 青函隧道 ''Seikan Zuidō'') là một [[đường hầm]] [[đường sắt]] dài 53.85km tại [[Nhật Bản]], với một đoạn dài 23.3km ngầm dưới đáy biển. Đây là đường hầm ngầm dưới biển dài nhất thế giới, dù [[Đường hầm eo biển Manche]] giữa Anh quốc và Pháp có đoạn ngầm dưới biển dài hơn. Nó chạy bên dưới [[Eo biển Tsugaru]] — nối [[Quận Aomori]] trên hòn đảo [[Honshū]] của Nhật với đảo [[Hokkaidō]] — như một phần của [[Tuyến đường Kaikyo]] của [[Công ty Đường sắt Hokkaido]]. Dù nó là đường hầm giao thông (đường sắt hay đường bộ) dài nhất thế giới, việc đi lại bằng đường không nhanh hơn và rẻ hơn đã khiến Đường hầm Seikan hoạt động không hết công suất. Kỷ lục đường hầm dài nhất của nó sẽ bị phá khi [[Đường hầm Gotthard Base]], một hầm đường sắt châu Âu, được hoàn thành vào khoảng năm 2018. Nó cũng là hầm đường sắt sâu nhất thế giới.<ref>http://www.popularmechanics.com/science/extreme_machines/4217338.html?series=23</ref>
 
== Lịch sử ==
 
Việc liên kết hai hòn đảo [[Honshū]] và [[Hokkaidō]] bằng một [[đường nối cố định]] đã được xem xét từ [[thời kỳ Taishō]] (1912–1925), nhưng việc khảo sát nghiêm túc chỉ bắt đầu năm 1946, vì việc mất những lãnh thổ hải ngoại ở cuối Thế chiến II và nhu cầu bố trí cho những binh lính phục viên. Năm 1954, nưam chiếc phà, gồm cả [[Toya Maru]], đã bị đắm tại Eo biển Tsugaru trong một trận cuồng phong, làm thiệt mạng 1,430 hành khách. Năm sau đó [[Công ty Đường sắt Quốc gia Nhật Bản|Công ty Đường sắt Quốc gia Nhật Bản (JNR)]] đã cho tiến hành việc khảo sát đường hầm.<ref name=Matsuo/>
Dòng 36:
| 1946-04-24 || Khảo sát địa chất bắt đầu
|-
| 1954-09-26 || Phà đường sắt ''[[Toya Maru]]'' đắm<br /> tại Eo biển Tsugaru
|-
| 1964-03-23 || Công ty Xây dựng Đường sắt Công cộng Nhật Bản được thành lập
Dòng 57:
Ở thời điểm ấy sự thành công của dự án đã bị nghi ngờ, với những dự báo về giao thông năm 1971 bị cho là quá thổi phồng. Thay vì tỷ lệ tăng giao thông như được dự đoán cho một đỉnh điểm năm 1985, đã tới trước vào năm 1978 và sau đó bắt đầu giảm. Sự giảm sút được cho là có nguyên nhân từ sự sụt giảm tốc độ phát triển của nền kinh tế Nhật Bản từ cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất năm 1973, và bởi những tiến bộ trong ngành vận tải hàng không và vận tải đường biển tầm xa.<ref name=Galloway>{{cite news|first = Peter |last = Galloway |title = Japan's super tunnel a political nightmare |work = Special to The Globe and Mail |page = 15 |date = 25 February 1981}}</ref>
 
[[ImageTập tin:Seikan500.jpg|thumb|right|Đồng xu 500 [[yen]] kỷ niệm]]
Đường hầm được mở cửa ngày 13 tháng 3 năm 1988, với tổng chi phí xây dựng ¥538.4&nbsp;tỷ (US$3.6 tỷ).<ref name=Morse>{{cite journal| author=Morse, D. | title=Japan Tunnels Under the Ocean | journal=Civil Engineering | month=May | year=1988 | volume=58 | issue = 5 | pages=50–53}}</ref>
 
Dòng 65:
Những đoàn tàu [[Shinkansen]] thường không chạy xuyên đường hầm, dù Đường hầm Seikan được xây dựng thích hợp cho tàu Shinkansen. Công ty [[JR East]] đã quyết định{{When|date=May 2009}} kéo dài [[Tohoku Shinkansen]] tới [[Aomori]] và sau đó sẽ kết nối với tuyến [[Hokkaido Shinkansen]] trong tương lai. Từ Aomori, Hokkaido Shinkansen sẽ tiếp tục chạy tới [[Ga Shin-Hakodate]] ở [[Hakodate]], [[Hokkaido]] vào năm 2015 và sau đó là tới [[Ga Sapporo]]. Tuyến Hokkaido Shinkansen tương lai sẽ được điều hành bởi [[JR Hokkaido]].
 
== Khảo sát, xây dựng và địa chất ==
<!--##### TRAFFIC DATA ####-->
{| class="wikitable" style="font-size:85%; margin:5px 5px 0px 10px;" align=right
!colspan=4 | Dữ liệu giao thông Eo biển Tsugaru
|-
! Năm !! Hành khách <br />(người/năm) !! Hàng hóa (Tấn/năm) !! Mode
|-
| 1955 || 2.020.000 || 3.700.000 || Phà Seikan<ref name=Matsuo/>
Dòng 89:
|}
 
[[ImageTập tin:Seikan Tunnel 3d cross section 1a.svg|right|thumb|Mặt cắt tiêu biểu đường hầm. '''(1)''' Hầm chính, '''(2)''' hầm dịch vụ, '''(3)''' hầm dẫn hướng, '''(4)''' phòng kết nối.]]
 
[[ImageTập tin:Seikan Tunnel profile diagram.svg|right|thumb|Biểu đồ mặt cắt đoạn đường hầm dưới biển.]]
 
Công việc khảo sát bắt đầu năm 1946, và 25 năm sau vào năm 1971 công trình bắt đầu xây dựng. Vào tháng 8 năm 1982, khoảng 700 m hầm còn lại đã được đào xong. Hai phía của đường hầm gặp nhau vào năm 1983.<ref name=Morse/>
Dòng 106:
Bên dưới Eo biển Tsugaru, một [[máy đào hầm]] (TBM) đã bị bỏ sau chưa tới 2 kilômét vì tính chất biến đổi của đá và sự khó khăn trong việc tiếp cận bề mặt để đổ vữa lỏng phía trước máy đào.<ref name=Paulson/><ref name=Tsuji/> Sau đó việc đào hầm được tiến hành bằng cách nổ mìn và dùng máy đào.
 
== Bảo dưỡng ==
Một báo cáo năm 2002 của Michitsugu Ikuma miêu tả đoạn ngầm dưới biển rằng "''kết cấu đường hầm có vẻ vẫn đang ở tình trạng tốt''".<ref name=Ikuma>{{cite journal| author=Ikuma, M. | title=Maintenance of the undersea section of the Seikan Tunnel | journal=Tunnelling and Underground Space Technology | year=2005 | volume=20 | issue= 2 | pages=143–149| doi=10.1016/j.tust.2003.10.001}}</ref> Khối lượng dòng chảy vào đã giảm theo thời gian, dù nó "''tăng ngay sau một trận động đất lớn''".<ref name=Ikuma/>
 
== Kết cấu ==
[[ImageTập tin:Inside seikan tunnel.JPG|thumb|Tàu hỏa tiếp cận Ga Tappi-Kaitei, tháng 7 năm 2008]]
Ban đầu chỉ khổ đường hẹp được đặt trong hầm, nhưng vào năm 2005 dự án [[Hokkaidō Shinkansen]] bắt đầu việc xây dựng có đặt đường [[khổ đôi]] và nối đường hầm với mạng lưới [[Shinkansen]]. Các đoàn tàu Shinkansen sẽ có thể đi qua đường hầm tới [[Hakodate]] từ năm 2015 và cuối cùng là tới [[Sapporo]]. Đường hầm có 52 kilômét [[Đường ray#Đường ray hàn liên tục|đường ray hàn liên tục]].<ref name= museum>{{cite web | title=Seikan Tunnel Museum | work=記念館案内 青函トンネル記念館 公式ホームページ | url=http://seikan-tunnel-museum.com/museum.html | accessdate=2006-05-08}}</ref>
Hai gà nằm bên trong chính đường hầm: [[Ga Tappi-Kaitei]] và [[Ga Yoshioka-Kaitei]]. Các ga đồng thời là điểm thoát hiểm khẩn cấp. Trong trường hợp hỏa hoạn hay thảm hoạ, cả hai ga đều có thể cung cấp dịch vụ hỗ trợ ở khoảng cách gần hơn. Hiệu quả của các đường thoát hiểm tại các ga khẩn cấp được tăng cường thêm bằng các quạt thông gió để thổi khói ra ngoài, các camera để hướng dẫn hành khách tới nơi an toàn, các hệ thống báo cháy (hồng ngoại) nhiệt và các họng phun nước.<ref name=Morse/>
Dòng 119:
Hai ga này là ga đường sắt đầu tiên trên thế giới được xây dựng dưới biển.{{Fact|date=May 2009}}
 
== Xem thêm ==
* [[Đường hầm eo biển Manche]], một hầm đường sắt ngầm dưới biển nối [[Anh Quốc]] và [[Pháp]].
* [[Đường hầm Seikan Tuyến Tappi Shako]]
* [[Tàu trên tàu]], một ý tưởng thực nghiệm để chuyên chở hàng xuyên đường hầm với tốc độ lớn hơn
 
== Tham khảo ==
{{reflist|2}}
 
== Liên kết ngoài ==
{{commons|Đường hầm Seikan}}
* [http://web.archive.org/web/20060503142919/http://www.pref.aomori.jp/newline/shinkan/shinkan/newline-e/sin-e08.html ''The Seikan Tunnel''], Aomori Prefecture Government, version of 3 May 2006 at the [[Internet Archive]]
Dòng 138:
}}
 
[[CategoryThể loại:Kiến trúc năm 1988]]
[[CategoryThể loại:Hầm đường sắt Nhật Bản]]
[[CategoryThể loại:Xây dựng bờ biển]]
[[CategoryThể loại:Hầm ngầm dưới biển]]
 
[[az:Seikan tuneli]]
Dòng 152:
[[en:Seikan Tunnel]]
[[es:Túnel Seikan]]
[[eo:Seikan -Tunelo]]
[[fa:سیکان (تونل)]]
[[fr:Tunnel du Seikan]]