Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tăng Bạt Hổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Hình:Lăng mộ Tăng Bạt Hổ.JPG|nhỏ|phải|300px|Lăng mộ TăngTằng Bạt Hổ tại khu nhà thờ cụ Phan Bội Châu, [[Huế]]]]
'''TăngTằng Bạt Hổ''' (1858-1906, chữ Hán: ''曾拔虎'', thường gọi là Tăng Bạt Hổ), tự là '''Sư Triệu''', hiệu là '''Điền Bát''', tên thật là '''TăngTằng Doãn Văn''', là chí sĩ [[Việt Nam]] tham gia chống Pháp cuối [[thế kỷ 19]], đầu [[thế kỷ 20]].
 
Ông sinh ngày [[19 tháng 7]] năm [[1858]] tại làng An Thường, nay thuộc xã Ân Thạnh, huyện [[Hoài Ân]], nằm cách huyện lỵ Hoài Ân khoảng 3 km về phía Đông Bắc, cách thành phố [[Quy Nhơn]], tỉnh [[Bình Định]] khoảng 90 km về phía Tây Bắc.
Dòng 7:
Năm 1872, khi mới 14 tuổi, Tăng Bạt Hổ đã tham gia chiến đấu chống Pháp trong hàng ngũ tướng cờ đen [[Lưu Vĩnh Phúc]]. Sau vụ binh biến đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu (1885) ở kinh thành [[Huế]] của phe chủ chiến do [[Nguyễn Văn Tường]], [[Tôn Thất Thuyết]] cầm đầu thất bại, vua [[Hàm Nghi]] chạy về căn cứ Tân Sở, xuất chiếu [[Cần Vương]] kêu gọi sĩ phu cùng nhân dân đứng lên kháng chiến chống Pháp. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, Tăng Bạt Hổ cùng với [[Phạm Toàn]] chiêu mộ binh lính, rèn đúc vũ khí xây dựng chiến khu chống Pháp tại vùng núi Kim Sơn (huyện Hoài Ân), quê hương ông, là một vùng rừng núi có địa thế hiểm trở.
 
Ở [[Bình Định]] bấy giờ phong trào kháng chiến chống Pháp phát triển mạnh và dần dần quy tụ dưới ngọn cờ lãnh đạo của [[Mai Xuân Thưởng]]. Tăng Bạt Hổ đã liên kết với lực lượng của Mai Xuân Thưởng và được giao nhiệm vụ giữ mặt trận phía bắc Bình Định. Ông cho quân cùng với Bùi Điền xây dựng và củng cố thêm khu Chóp Chài (Phù Mỹ) và hai đồn tại đèo Phủ Cũ và đèo Bình Đê.
 
Thực dân Pháp và triều đình Nguyễn cử [[Nguyễn Thân]] và [[Trần Bá Lộc]] đem quân đàn áp phong trào kháng chiến ở Bình Định. Đầu năm 1886 Tăng Bạt Hổ cử hai tướng là Bùi Điền và Đỗ Duyệt đem quân giao chiến với Nguyễn Thân nhưng bị thất bại. Ông tiếp tục chiêu mộ thêm binh sỹ, củng cố thêm các đồn lũy để chống lại quân của Nguyễn Thân, nhưng trước thế mạnh của địch, hầu hết các chiến lũy của nghĩa quân đều bị phá vỡ. Đầu năm 1887 Nguyễn Thân kéo đại quân triệt phá mật khu Kim Sơn, vây bắt Tăng Bạt Hổ. Mặc dù Nguyễn Thân không thực hiện được kế hoạch, nhưng do quân ít, vũ khí thô sơ nên cuối cùng nghĩa quân tan rã. Nghĩa quân tản mát rồi nương náu tại các bản làng Tây Nguyên.
 
Sau khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Tăng Bạt Hổ vượt núi sang Lào, [[Xiêm]], [[Trung Quốc]], Nga, Nhật tìm Lưu Vĩnh Phúc nhưng Phúc đã chết. Ông quyết định theo nghề hàng hải, làm thủy thủ cho tàu buôn, vì thế có điều kiện quan sát văn minh của các nước và tìm thêm đồng chí. Nhờ nghề thủy thủ, ông thường qua lại [[Yokohama|Hoành Tân]], Trường Kỳ và sau đó ít năm, ông thông thạo [[tiếng Nhật]] và được sung vào Hải quân Nhật Bản.
 
Trong [[chiến tranh Nga - Nhật]], vì lòng căm hờn người Âu, ông nguyện hi sinh giúp Nhật, nổi tiếng là quả cảm, có công trong những trận chiến [[Trận Đài Liên|Đài Liên]] và [[Trận Lữ Thuận|Lữ Thuận]]. Ngày khải hoàn, ông được dự bữa đại yến do [[Thiên hoàng Minh Trị]] đãi các tướng sĩ. Đỡ chén rượu của [[Nhật hoàng]] ngự rót thưởng, ông uống một hơi cạn rồi khóc lớn ở giữa triều đình. Nhật hoàng hỏi, ông giãi bày hết nỗi lòng: