Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Nhật Bản”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
lại sử đổi linh tinh
Dòng 1:
[[Tập tin:Japanese_Empire.png|nhỏ|300px|Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[ThếChiến chiếntranh thế giới thứ hai]] kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng [[Đông Á]] đã tăng gấp gần '''5 lần''' diện tích quốc gia]]
'''Đế quốc Nhật Bản''' ([[tiếng Nhật]]: 大日本帝國; [[Hán-Việt]]: ''Đại Nhật Bản Đế Quốc'') là thể chế của [[Nhật Bản]] từ [[9 tháng 11]] năm [[1867]] đến [[2 tháng 9]] năm 1945, khoảng thời gian bao gồm các thời kỳ [[lịch sử Nhật Bản|lịch sử]] Minh Trị (明治時代), Đại Chính (大正時代) và Chiêu Hòa (昭和時代 ). Những [[Nhật hoàng|Thiên hoàng]] trong giai đoạn này gồm có [[Mutsuhito]], [[Yoshihito]] và [[Hirohito]].
 
Những biến cố quan trọng của thời kỳ này:
Dòng 10:
== Bối cảnh và Danh hiệu ==
[[Tập tin:Naval Ensign of Japan.svg|trái|nhỏ|200px|[[Cờ Hải quân Nhật Bản]]]]
Theo hiến pháp, '''Đế quốc Nhật Bản''' khởi đầu từ [[29 tháng 11]] năm [[1890]] - sau cuộc cải cách chính trị phục hưng đem quyền lực cai trị cả nước Nhật về tay [[Thiên hoàng Minh Trị]] - và giải thể hệ thống [[Mạc phủ]] Tokugawa. Tuy vậy, chính sách đế quốc bắt đầu trước đó, từ năm [[1871]], khi Nhật chú trọng việc bảo vệ lãnh thổ và đồng thời phát huy quân sự dòm ngó các nước láng giềng. Thời đại đế quốc kéo dài qua ba triều đại: Minh Trị ([[1867]] - [[1912]]), Đại Chính (1912 - [[1926]]) và 21 năm đầu (1926 - 1947) của Chiêu Hòa (NhậtThiên hoàng [[Hirohito]] trị vì cho đến [[1989]]).
 
Đế quốc Nhật Bản, [[Phát xít Ý]] và [[Đức Quốc Xã]] nằm trong [[khối Trục]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], cả ba đều có chủ trương làm bá chủ toàn cầu. Trước cuộc chiến này, hải quân Nhật thuộc hạng mạnh nhất nhì thế giới, đủ sức đánh bại [[Nga]] và [[Trung Quốc]]. Sau năm [[1940]], khi kỹ nghệ phát triển vượt bực và quân lực tăng cường tối đa, Nhật bắt đầu đặt kế hoạch xâm lăng láng giềng - Trung Quốc, [[Đại Hàn Đế quốc|Đại Hàn]] và [[Đông Nam Á]].
Dòng 16:
== Lịch sử ==
[[Tập tin:FukuzawaYukichi.jpg|nhỏ|trái|200px|[[Fukuzawa Yukichi]]]]
[[Tập tin:Meiji tenno1.jpg|170px|phải|nhỏ|[[Thiên hoàng Minh Trị]], vị HoàngThiên đếhoàng đầu tiên của Đế quốc Nhật Bản (1867-1912)]]
 
Cội nguồn của đế quốc Nhật Bản có từ cuộc khôi phục hoàng quyền vào [[thời kỳ Minh Trị]]. Đây là một cuộc thay đổi chính trị rất lớn trong lịch sử Nhật Bản. Trước đó, [[Mạc phủ Togukawa]] lấn át Thiên hoàng, nắm mọi quyền hạn trong tay cai trị các đảo của Nhật bảnBản, [[bế môn tỏa cảng]], chú tâm trùng tu xây dựng [[văn hóa Nhật Bản|văn hóa]], [[nghệ thuật Nhật Bản|nghệ thuật]]. Lúc bấy giờ, các thế lực đế quốc Tây phương như [[Hoa Kỳ]], [[Anh Quốc]], [[Đức]] và [[Hà Lan]] đang nỗ lực lấn chiếm các nước [[châu Á]]. Do sức ép của thay đổi bên ngoài, chính quyền Nhật Bản phải chịu ký hiệp ước "bất bình đẳng" với Hoa Kỳ tại [[hiệp ước Kanagawa|Kanagawa]]. Dân chúng Nhật lấy làm bất mãn khi thấy Nhật chịu yếu thế.
 
[[Fukuzawa Yukichi]], một nhà tư tưởng Nhật, đưa ra kế hoạch cải tiến Nhật Bản bằng cách thay đổi hoàn toàn hệ thống chính trị, bỏ những tư tưởng Á châu hủ lậu, dồn sức canh tân kỹ nghệ để theo kịp Tây phương, và đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng Nhật đối với các nước láng giềng. Fukuzawa Yukichi thúc đẩy Nhật Bản vào đường lối chính trị thực tiễn, xa rời những tư tưởng có tính chất tình cảm hay lý tưởng không thực. Ông kêu gọi dân Nhật thoát khỏi vòng suy nghĩ Á châu, học hỏi theo Tây phương, biện minh rằng xã hội muốn theo kịp văn minh phải thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Ông viết:
Dòng 28:
=== Hiến pháp ===
[[Tập tin:Meiji Kenpo02.jpg|nhỏ|170px|上諭 - "Thánh chỉ" một phần của Hiến pháp Nhật (2)]]
[[Hiến pháp đế quốc Nhật]] được ban hành năm [[1889]], chính thức trao nhiều quyền hạn chính trị vào tay NhậtThiên hoàng. Tuy nhiên cho đến [[1936]], từ "Đại Nhật Bản Đế Quốc" mới được chính thức sử dụng. Những từ khác để chỉ Nhật Bản lúc bấy giờ gồm có: 日本 Nhật Bản, 大日本 Đại Nhật Bản, 日本國 Nhật Bản Quốc, 日本帝國 Nhật Bản Đế Quốc.
 
Trong bản thảo hiến pháp [[1946]], một năm sau khi đầu hàng, Nhật thiết lập hệ thống chính trị và tên hiệu của nước trở thành: 日本国 Nhật Bản Quốc.
Dòng 42:
Vào thời điểm này, các gia tộc kỹ nghệ đại tư bản như [[Mitsubishi]], Mitsui, Sumitomo, Yasuda bắt đầu phát triển và nhận thức được sự cần thiết của nguyên liệu và tài nguyên mà Nhật Bản không có sẵn. Quan niệm về xâm lăng nước láng giềng dần dần lớn mạnh với nhiều mục đích: tạo vòng đai quân sự bảo vệ an ninh lãnh thổ Nhật Bản, lấy tài nguyên phát triển kỹ nghệ và tạo thị trường tiêu thụ hàng Nhật.
 
Trong khi đó, các thế lực tâyTây phương như [[Hoa Kỳ]], [[Anh Quốc]], [[Pháp]] cũng đang cố gắng bành trướng ảnh hưởng kinh tế vào châu Á - nhất là [[Trung Hoa]]. Nhận thấy nguy cơ thua kém các thế lực "mọi da trắng" ngay trên địa bàn của mình, Nhật Bản ra sức củng cố phát huy kỹ nghệ - đặc biệt là vũ khí quân sự và trong vòng vài năm tạo dựng được một lực lượng quân sự hùng mạnh.
 
[[Araki Sadao]] là một lãnh tụ khuynh hữu đảng quân phiệt Nhật, từng lãnh đạo Hội Hoạt động Từ thiện Đế quốc (''Kodaha'') đối lập với Nhóm Kiểm soát (''Toseiha'') của tướng Kazushige Ugaki. Ông gắn liền cổ học Nhật ([[võ sĩ đạo]] - ''bushido'') với chủ thuyết phát xít đang thịnh hành tại châu Âu, đưa đến phong trào hoạt động dưới dạng phát xít Nhật (Quốc xã ''showa'').
 
Từ [[1932]], Nhật Bản lọt vào thế buộc phải đi đến chiến tranh theo hướng dẫn của Araki. Chủ nghĩa độc tài, quân phiệt và bành trướng được chấp nhận như lời giải duy nhất cho tình huống bấy giờ của Nhật Bản và ít có ai lên tiếng phản đối. Trong cuộc họp báo ngày 23 tháng 9 năm 1932, Araki đưa ra khái niệm ''Kodoha'' (Đạo đế quốc), gắn liền NhậtThiên hoàng, người Nhật, đất Nhật và tinh thần Nhật vào một khối không thể tách rời. Từ đó nẩy ra một loại "giáo đạo" mới tôn sùng Nhật[[Hoàng hoàngđế]] trong lòng người Nhật.
 
Nước Nhật trở thành một công cụ phục vụ cho quân đội và HoàngThiên đếhoàng Nhật Bản. [[Gươm]] Nhật (''[[katana]]'') được đem ra làm phù hiệu cho lý tưởng đế quốc, súng ''[[Nambu]]'' được dùng để biểu hiện tinh thần cận chiến của quân đội Nhật.
 
Một mơ ước của giới quân phiệt cực hữu là làm sống lại hệ thống [[Mạc phủ]] khi xưa, nhưng dưới dạng quân trị hiện đại - nghĩa là NhậtThiên hoàng chỉ là long trọng viên và quyền hạn chỉ huy cả nước nằm trong tay lãnh tụ quân sự với danh nghĩa phụ chính - tương tự như chức [[Duce]] của [[Benito Mussolini]] ở [[phát xít Ý|Ý]] và quyền [[Führer]] của [[Adolf Hitler]] ở [[Đức Quốc Xã|Đức]]. Tuy nhiên một số nhà quân sự Nhật thời này ra sức ngăn cản lối suy nghĩ này, quyết giành quyền lực hoàn toàn vào tay NhậtThiên hoàng.
 
== Trước ThếChiến chiếntranh thế giới thứ nhất ==
=== Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất ===
{{chính|Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất}}
Dòng 59:
[[Tập tin:Tōgō Heihachirō.jpg|trái|170px|nhỏ|[[Đô đốc Hải quân]], [[Bá tước]] [[Togo Heihachiro]], chỉ huy trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất]]
[[Tập tin:Ijuin Goro.jpg|trái|170px|nhỏ|Đô đốc hải quân, [[Nam tước]] [[Goro Ijuin]]]]
Trước khi tham dự vào [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]], sau khi được thành lập sau cuộc [[Minh Trị Duy tân]], Đế quốc Nhật Bản đã tham gia 2 cuộc chiến quan trọng. Cuộc chiến thứ nhất là [[Chiến tranh Nhật-Trung thứ nhất]] xảy ra giữa thời kỳ [[1894]] và [[1895]]. Cuộc chiến này chủ yếu là xung quanh việc tranh giành quyền kiểm soát và ảnh hưởng đối với [[nhà Triều Tiên]]. Một cuộc nổi loạn của nông dân đã dẫn tới việc triều đình Triều Tiên thỉnh cầu Trung Quốc gửi quân qua Triều Tiên để ổn định tình hình. Đế quốc Nhật Bản đáp trả bằng cách gửi quân Nhật qua Triều Tiên và dựng nên một triều đình bù nhìn ở kinh đô [[Seoul|Hán Thành]]. Trung Quốc phản đối, và chiến tranh nổ ra. Quân Nhật đánh bại quân Trung Quốc ở [[bán đảo Liêu Đông]] và gần như phá tan hải quân Trung Quốc tại [[Trận chiến sông Nha Lục (1894)|Trận chiến sông Nha Lục]]. Trung Hoa bị buộc phải ký vào [[Hiệp ước Shimonoseki]], nhường nhiều phần của [[Mãn Châu]] và đảo [[Đài Loan]] cho Nhật Bản (xem [[Đài Loan dưới sự cai trị của Nhật Bản]]). Hiệp ước cũng thiết lập quyền tối cao của Nhật Bản tại Trung Hoa trong 50 năm sau.
 
=== Chiến tranh Nga-Nhật ===
Dòng 65:
[[Chiến tranh Nga-Nhật]] là một cuộc xung đột tranh giành quyền kiểm soát [[Triều Tiên]] và một số vùng của [[Mãn Châu]] giữa Đế quốc Nhật Bản với [[Đế quốc Nga]] xảy ra trong giai đoạn 1904-1905. Cuộc chiến này có ý nghĩa quan trọng do đây là cuộc chiến hiện đại đầu tiên mà một nước châu Á đánh bại một cường quốc châu Âu và đã giúp nâng cao hình ảnh và vị thế nước Nhật trên chính đàn quốc tế. Cuộc chiến được đánh dấu bằng việc Nhật xóa bỏ được quyền lợi của Nga tại Triều Tiên, Mãn Châu và Trung Quốc. Đáng kể là bán đảo Liêu Đông, bị kiểm soát bởi thành phố cảng [[Lữ Thuận]] (旅順口, cảng Arthur). Thoạt đầu, trong hiệp ước Shimonseki, cảng Lữ Thuận đã được nhượng cho Nhật.
[[Tập tin:Emperor Taishō.jpg|200px|left|thumb|[[Đại Chính Thiên hoàng]], vị hoàng đế thứ hai của đế quốc Nhật Bản]]
Phần này của hiệp ước bị các nước lớn ở phương Tây bác bỏ, cảng được chuyển cho Đế quốc Nga, tăng thêm quyền lợi của Nga trong khu vực. Những quyền lợi này xung đột với quyền lợi của Nhật Bản. Cuộc chiến bắt đầu với một cuộc tấn công bất ngờ của Nhật vào hạm đội Đông Nga đóng ở cảng Lữ Thuận, tiếp theo là Trận [[Hải chiến cảng Lữ Thuận]]. Các đơn vị Nga cố gắng trốn chạy đã bị đánh bại thê thảm tại [[trận chiến Hoàng Hải]] bởi lực lượng hải quân Nhật do Đô đốc Togo Heihachiro chỉ huy. Một năm sau, hạm đội Baltic của Nga đã đến đây nhưng cũng bị tiêu diệt ở [[Hải chiến Tsushima]]. Tuy đối với Nga, chiến trận trên bộ không có kết quả thảm hại đến như vậy và quân Nga đông hơn người Nhật, 300.000 so với 220.000 nhưng quân đội Nhật đã đánh mạnh hơn nhiều so với đối phương Nga và giành được một lợi thế chính trị mà lợi thế này kết hợp với [[Hiệp ước Portsmouth]] được đàm phán ở Hoa Kỳ với [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống Mỹ]] [[Theodore Roosevelt]] ở [[Hoa Kỳ]]. Kết quả là, [[đế quốc Nga]] mất một nửa đảo [[Sakhalin]], cũng như nhiều quyền khai khoáng tại Mãn Châu.
 
== Chiến tranh thế giới thứ nhất ==
Dòng 71:
[[Tập tin:Masatake Terauchi.jpg|trái|thumb|150px|nhỏ|[[Nguyên soái]] [[Masatake Terauchi]] từng là [[Thủ tướng Nhật Bản]]]]
[[Tập tin:Qingdao-city-map-1912-in-german-from-madrolles-guidebook-to-northern-china.jpg|nhỏ|200px|Bản đồ của Đức về Thanh Đảo, 1912 trong [[Trận Thanh Đảo]]]]
Nhật Bản tham gia [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] năm [[1914]] theo phe [[Entente]] nhân cơ hội [[Đế quốc Đức]] đang bận rộn với chiến tranh ở châu Âu và Nhật muốn mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở [[Trung Quốc]]. Nhật Bản tuyên chiến với Đức ngày [[23 tháng 8]] năm 1914 và nhanh chóng chiếm những lãnh thổ: [[Sơn Đông]], [[Trung Quốc]] và Mariana, Caroline và [[Quần đảo Marshall]] ở [[Thái Bình Dương]] (lúc đó gọi là [[Tân Guinea thuộc Đức]]). [[Trận Thanh Đảo]] là một cuộc đổ bộ chớp nhoánh vào thuộc địa Giao Châu của Đức tại Trung HoaQuốc và toàn bộ quân Đức tại đây đầu hàng vào ngày [[7 tháng 11]] năm 1914.
 
Đối với đồng minh phương Tây, đặc biệt là [[Anh Quốc]] đang đương đầu chiến tranh nặng nề tại châu Âu, Nhật Bản tìm cách bám lấy vị thế của mình tại Trung hoaQuốc bằng việc đưa ra 21 điều đòi hỏi áp đặt lên Trung HoaQuốc vào năm 1915. Ngoài việc nới rộng tầm kiểm soát của họ lên các tô giới của Đức ở Mãn Châu và Nội Mông, Nhật Bản còn muốn chia phần làm chủ một cơ sở chính khai thác và luyện kim ở miền trung Trung Quốc, cấm đoán Trung Quốc nhường hay cho thuê các khu duyên hải cho một cường quốc thứ ba, kiểm soát các thứ linh tinh từ quân sự, chính trị và kinh tế. Nếu những điều đó được thành công thì Trung Quốc đã trở thành nước bảo hộ của Nhật Bản. Tuy nhiên phải đối mặt với những thương lượng chậm chạp với chính phủ Trung Quốc, thái độ chống Nhật đang lan rộng tại Trung HoaQuốc và những chỉ trích của quốc tế, Nhật Bản rút lại một số đòi hỏi và các hiệp ước đã được ký vào ngày [[7 tháng 5]] năm [[1915]].
 
== Chiến tranh thế giới thứ hai ==
Đế quốc Nhật Bản liên minh quân sự với [[Đức quốc xã]] và [[phát xít Ý]] vì có chung mục đích là chia sẻ vùng ảnh hưởng của mình; phát xít Đức và Ý bành trướng ở [[châu Âu]] và đế quốc Nhật bành trướng ở [[châu Á]]. Liên minh quân sự này được hình thành để tăng cường sức mạnh quân sự của họ và sự hợp tác trong quan hệ với các quốc gia khác, được biết với tên gọi là [[phe Trục]].
 
Sau khi các hiệp ước bất bình đẳng bị hủy bỏ khi đế quốc Nhật đã hùng mạnh về quân sự và bắt đầu tranh chấp các lãnh thổ của các quốc gia khác (như Trung HoaQuốc, Nga), các nước phe [[Đồng Minh]], đặc biệt là Hoa Kỳ và Anh Quốc, liền hạn chế giao thương với Nhật. Liên minh phe Trục được Đức quốc xã đem ra để gây áp lực với Anh và Hoa Kỳ và như lời cảnh cáo với Hoa Kỳ là hãy đứng ngoài cuộc trong [[Thế chiến thứ hai]] còn nếu như không sẽ bị lôi kéo vào cuộc chiến từ hai mặt trận - phía đông và phía tây.
 
[[Tập tin:Hirohito wartime.jpg|trái|thumb|[[Hirohito]], vị hoàng đế thứ ba và cuối cùng của Đế quốc Nhật Bản]]
 
Vào ngày [[4 tháng 9]] năm [[1941]], nội các Nhật Bản họp để xem xét về kế hoạch chiến tranh và ra quyết định:
<blockquote>Đế quốc của chúng ta vì mục đích tự vệ và tự bảo tồn sẽ hoàn tất sự chuẩn bị chiến tranh… <nowiki>[</nowiki>và là<nowiki>]</nowiki> … giải quyết bằng chiến tranh với Hoa Kỳ, Anh Quốc và [[Hà Lan]] nếu thấy cần thiết. Đế quốc của chúng ta sẽ cố gắng tìm mọi hình thức ngoại giao có thể có, mặt đối mặt với Hoa Kỳ và Anh Quốc để đạt được mục tiêu của mình … Trong trường hợp không có triển vọng được đáp ứng về những đòi hỏi của chúng ta 10 ngày đầu trong tháng 10 qua thương lượng ngoại giao được nói ở trên, chúng ta sẽ phải quyết định đối đầu chống Hoa Kỳ, Anh Quốc và Hà Lan.</blockquote>
 
=== Thành viên của khối Trục ===
Dòng 90:
 
=== Xâm lăng và các trận chiến ===
==== Trung HoaQuốc ====
{{chính|Chiến tranh Trung-Nhật}}
[[Tập tin:Mukden 1931 japan shenyang.jpg|nhỏ|180px|Quân đội Nhật tiến vào [[Thẩm Dương]] trong vụ [[biến động Mukden]]]]
Dòng 102:
 
==== Mãn Châu ====
Trước sự kháng cự yếu ớt, Nhật xâm lược và thôn tính được Mãn Châu năm [[1931]]. Nhật tuyên bố cuộc xâm lăng đó là sự giải phóng Mãn Châu khỏi người Trung HoaQuốc cũng như họ từng tuyên bố sự sát nhập Triều Tiên là hành động bảo hộ. Nhật liền khi đó dựng lên một chính quyền bù nhìn gọi là [[Mãn Châu quốc]] và đưa cựu hoàng đế Trung Quốc là [[Phổ Nghi]] làm [[quốc trưởng]]. [[Nhiệt Hà]], lãnh thổ giáp ranh Mãn Châu quốc cũng bị chiếm vào năm [[1933]].
 
==== Malaysia ====
{{chính|Trận Malaya}}
[[Trận chiến Malaya]] (hiện thời là [[Malaysia]]) là cuộc xung đột giữa quân đội [[Khối Thịnh vượng chung Anh|Khối Liên hiệp Anh]] bao gồm [[Anh Quốc]], [[Ấn Độ]], [[Úc]] và [[Malaya]] từ lực lượng [[Malaysia|liên bang Malaya]] và [[Quân đội Hoàng gia Nhật Bản|quân đội NhậtThiên hoàng]] bắt đầu từ ngày [[8 tháng 12]] năm [[1941]] cho đến ngày [[31 tháng 1]] năm [[1942]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]]. Kết quả là Nhật giành thắng lợi và bắt đầu chiếm đóng Malaya.
 
==== Singapore ====
{{chính|Trận Singapore}}
[[Tập tin:JapaneseMarchSgpCity.jpg|phải|nhỏ|180px|Quân chiến thắng tiến qua trung tâm thành phố (Hình của bảo tàng đế quốc về chiến tranh)]]
[[Trận chiến Singapore]] (Tân Gia Ba) là trận chiến xảy ra tại chiến trường [[Đông nam Á]] trong ThếChiến tranh thế chiếngiới thứ hai khi Đế quốc Nhật xâm lược thành trì phe [[Đồng Minh]] ở [[Singapore]]. Chiến sự kéo dài từ 7 tháng 2 đến 15 tháng 2 năm [[1942]] và kết quả là Singapore rơi vào tay quân Nhật sau khi tướng Anh [[Arthur Percival]] đầu hàng. Đây là cuộc đầu hàng lớn nhất trong lịch sử của lực lượng quân sự chỉ huy bởi Anh Quốc, khoảng 80.000 quân Ấn Độ, Úc và Anh trở thành [[tù binh chiến tranh]] cùng với 50.000 bị bắt trong cuộc xâm chiếm Malaysia của Nhật.
 
==== Miến Điện ====
Dòng 123:
Biến cố bắt đầu vào ngày 11 tháng 5 năm [[1939]] khi một đơn vị kị binh Mông Cổ khoảng 70-90 người tiến vào vùng tranh chấp để tìm cỏ cho ngựa ăn thì gặp kị binh Mãn Châu quốc tìm cách đuổi họ ra khỏi vùng tranh chấp. Hai ngày sau lực lượng này của Mông Cổ trở lại và người Mãn Châu bất lực không thể đuổi họ ra khỏi vùng này.
 
Ngay thời điểm này [[Đạo quân Quan Đông|quân đội Quan Đông]] Nhật bắt đầu nhập cuộc - một đơn vị trinh sát dưới quyền chỉ huy của Trung tá [[Yaozo Azuma]] - được phái đến để giao chiến với người Mông Cổ ngày 14 tháng 5, nhưng quân Mông Cổ rút lui về hướng tây sau một ít mất mát. [[Iosif Stalin]] ra lệnh cho [[STAVKA]], chỉ uy cao cấp của [[Hồng quân]], vạch ra một kế hoạch phản công chống lại quân Nhật. [[Georgi Konstantinovich Zhukov]], một sĩ quan đầy hứa hẹn, được chọn để chỉ huy cuộc phản công.
 
==== Philippines ====
Dòng 134:
==== Úc ====
[[Tập tin:Chuichi Nagumo.jpg|trái|180px|nhỏ|[[Phó đô đốc]] [[Chuichi Nagumo]], chỉ huy trưởng cuộc oanh kích Darwin và tấn công Trân Châu cảng]]
[[Không quân Nhật Bản]] oanh tạc thành phố [[Darwin (Úc)|Darwin]] ngày [[19 tháng 2]] năm [[1942]]. Đây là lần đầu tiên nước [[Úc]] bị một quốc gia khác tấn công và là một sự kiện quan trọng trên chiến trường [[Thái Bình Dương]] trong [[ThếChiến chiếntranh thế giới thứ hai]].
 
Biến cố này thường được gọi là "[[Trân Châu Cảng]] của Úc". Mặc dù nó chỉ là mục tiêu không mấy đáng kể nhưng số bom được thả xuống Darwin nhiều hơn số bom được sử dụng trong cuộc tấn công [[Trân Châu Cảng]]. Tương tự như Trân Châu Cảng, thành phố Úc nầy cũng chưa sẳn sàng và bị tấn công bất ngờ. Mặc dù thành phố này bị Nhật Bản không kích thêm 63 lần nữa trong năm 1942 và [[1943]], cuộc không kích vào ngày 19 tháng 2 gây nhiều thiệt hại nhất.
Dòng 146:
=== Thảm sát Túc Thanh ===
{{chính|Thảm sát Túc Thanh}}
Khi quân Nhật chiếm được [[Singapore]], các sỹ quan của [[quân đội]] Nhật Bản đã trở nên quan ngại về số dân Trungngười Hoa địa phương. [[Quân đội Đế quốc Nhật]] đã ý thức được rằng [[Hoa kiều]] rất trung thành với Anh hoặc [[Trung Quốc]] với việc những [[người Hoa]] giàu có đã cung cấp tài chính cho [[Tưởng Giới Thạch]] trong [[Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai]] sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc tháng 7 năm 1937. Thẩm quyền quân sự dưới quyền chỉ huy của tướng [[Tomoyuki Yamashita]] đã quyết định một chính sách loại trừ những thành phần có đầu óc chống Nhật.
 
Ngay sau khi Singapore thất thủ, Trung tá Masayuki Oishi chỉ huy trưởng đơn vị [[hiến binh]] số hai chiếm dụng các văn phòng của dinh thự [[tòa án tối cao]]. Singapore bị chia ra thành những tiểu phân khu, mỗi phân khu được kiểm soát bởi một sĩ quan hiến binh. Người Nhật thiết lập các trung tâm thanh lọc cố định khắp các nơi trên thuộc điạ. Mục đích là để thu thập và thanh lọc các nam nhân gốc Trung HoaQuốc từ 18 đến 50 tuổi và loại trừ những ai mà họ cho là chống Nhật. Những ai vượt qua được thanh lọc sẽ nhận được một mẫu giấy có ghi "Đã thanh lọc" hoặc được đóng dấu mực vào tay và áo của họ. Những ai không qua được thanh lọc sẽ bị đóng dấu các hình tam giác. Có sẳn xe cam nhông gần các trung tâm thanh lọc để đưa những thành phần chống Nhật đến với thần chết. Quân đội Nhật chọn những địa điểm xa xôi như [[Changi]], [[Punggol]], [[Blakang Mati]] và [[Bedok]] để thực hiện việc hành quyết. Có những nạn nhân bị quăng ra khỏi boang tàu hoặc bị bắn chết bằng súng máy rơi xuống bến cảng.
 
=== Thảm sát Nam Kinh ===
{{chính|Thảm sát Nam Kinh}}
Vụ [[Thảm sát Nam Kinh]] là [[tội ác chiến tranh]] ghê tởm nhất của quân Nhật trong ThếChiến chiếntranh thế giới thứ hai. Quân Nhật đã tiến hành một [[cuộc thảm sát]] đẫm máu ở xung quanh và trong [[Nam Kinh]], [[Trung Quốc]] vào ngày 13 tháng 12 năm 1937. Thời gian kéo dài của cuộc thảm sát thì không rõ lắm dù sự tàn sát này đã kéo dài suốt đến 6 tuần sau đến đầu tháng 2 năm 1938. Quy mô của [[Các tội ác chiến tranh của Nhật Bản|sự tàn ác]] đang được tranh cãi gay gắt từ tuyên bố của quân đội Nhật tại [[Tòa án quân sự quốc tế Viễn Đông]] rằng những người bị giết là quân nhân và rằng "không có sự tàn sát nào" cho đến con số của [[Trung Quốc]] tuyên bố là số nạn nhân dân sự lên đến 300.000 người. [[Phương Tây]] có xu hướng tin theo con số thống kê do phía Trung Quốc công bố với nhiều nguồn trích dẫn phương Tây đưa ra con số 300.000 nạn nhân. Điều này một phần là do sự thành công về mặt thương mại của cuốn sách [[Thảm sát Nam Kinh (sách)|Thảm sát Nam Kinh]] của [[Iris Chang]], đã dựng lên vũ đài cho các cuộc tranh cãi về vấn đề này tại phương Tây; và tồn tại nhiều tư liệu ghi chép bằng ảnh chụp phong phú khác về những cơ thể bị cắt xẻo của phụ nữ và trẻ em.
 
=== Đơn vị 731 ===
Dòng 177:
Các [[chiến lược gia quân sự]] Nhật Bản biết rất rõ sự không cân xứng bất lợi về phía họ giữa tiềm năng [[kỹ nghệ]] của họ và của Hoa Kỳ. Vì lý do này người Nhật cho rằng sự thành công của họ là khả năng chiếm ưu thế [[chiến lược]] bằng cách chiến thắng mang tính chiến lược tại [[Trân Châu cảng]]. Chỉ khi nào [[hạm đội Thái bình dương của Hoa Kỳ]] bị tiêu diệt và người Nhật chiếm được các tiền đồn xa xôi của Hoa Kỳ thì mới có hy vọng là đế quốc Nhật Bản không bị sức mạnh kỹ nghệ của Hoa Kỳ đè bẹp. Tuy nhiên vào tháng 5 năm 1942, sự thất bại trong nỗ lực có tính cách quyết định đánh bại [[Đồng Minh]] ở [[trận biển Coral]], mặt dù chiếm ưu thế hơn về lực lượng, đã đưa đến kết cuộc thảm bại chiến lược cho Đế quốc Nhật Bản. Tiếp theo đó là một cuộc bại trận thảm khốc hơn nữa vào tháng 6 năm 1942 khi Nhật mất đến 4 [[hàng không mẫu hạm]] tại [[trận Midway]]. Trận Midway là một sự bại trận mang tính quyết định cho [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản]] và là một bước ngoặt của cuộc chiến. Những cuộc bại trận trước Đồng Minh tiếp theo diẽn ra ở [[chiến dịch Guadalcanal]] vào tháng 9 năm 1942 và [[New Guinea]] năm [[1943]] khiến Đế quốc Nhật chuyển sang thế phòng thủ cho đến kết thúc cuộc chiến. Đến năm 1944 quân Đồng Minh đã chiếm hoặc chế ngự được nhiều căn cứ chiến lược của Nhật bằng những cuộc đổ bộ và oanh tạc quy mô. Thêm vào đó, [[tàu ngầm]] của Đồng Minh cũng gây thiệt hại nặng cho [[đường hàng hải]] Nhật nên bắt đầu làm tê liệt nền [[kinh tế]] Nhật và khả năng tiếp tế cho [[quân đội]] Nhật. Vào đầu 1945 [[thủy quân lục chiến Hoa Kỳ]] cố giành quyền kiểm soát [[quần đảo Ogasawa]] trong nhiều trận đánh sinh tử như [[trận Iwo Jima]] đã đánh dấu sự khởi đầu một loạt các đảo của Nhật bị thất thủ.
 
=== Thần phongKamikaze ===
{{Chính|Thần phongKamikaze}}
[[Tập tin:USS_Bunker_Hill_hit_by_two_Kamikazes.jpg|250px|nhỏ|phải|[[USS Bunker Hill (CV-17)|USS ''Bunker Hill'']] bị máy bay của [[Ogawa Kyioshi]] và một [[thần phong]] khác đâm trúng (gần [[Kyushu]] ngày [[11 tháng 5]] năm [[1945]]) làm 372 người chết trong thủy thủ đoàn 2.600 người]]
Trong năm 1943-44, lực lượng Đồng Minh được hậu thuẫn bởi sức mạnh kỹ nghệ và tài nguyên phong phú của Hoa Kỳ đã dần dần tiến công về phía đất Nhật Bản. Chỉ huy trưởng [[Asaiki Tamai]] kêu gọi một nhóm 23 học viên [[phi công]] xuất sắc mà Tamai trực tiếp đào tạo tình nguyện vào lực lượng xung kích đặc biệt. Tất cả các học viên đều đưa cả hai tay để tình nguyện vào chiến dịch. Sau đó Tamai yêu cầu Trung úy [[Yukio Seki]] làm chỉ huy cho lực lượng này. Theo lời kể lại thì Seki nhắm nghiền hai mắt lại, cúi đầu và suy nghĩ vài giây trước khi nói với Tamai: "xin cho tôi làm điều đó." Như vậy Seki trở thành thần phong thứ 24 được chọn cho sứ mạng cảm tử.
Dòng 193:
Bảy ngày sau vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, Đế quốc Nhật Bản ký giấy đầu hàng vô điều kiện và kết thúc chiến tranh với phe Đồng Minh bằng [[tuyên bố Potsdam]].
 
[[Hirohito|NhậtThiên hoàng [[Hirohito]] nói:
{{cquote|
''Hơn nữa kẻquân thù đã bắt đầu đem ra sử dụng loại [[bom nguyên tử|bom kinh khủng]] mới nhất mà sức tàn phá của nó thực sự không lường được đã gây ra cái chết của nhiều sinh mạng vô tội. Nếu chúng ta tiếp tục chống trả, không chỉ quốc gia Nhật Bản bị sụp đổ nhanh chóng và bị tiêu diệt mà có thể dẩn đến sự tuyệt chủng hoàn toàn văn minh của loài người. Nếu điều đó xãy ra, Trẫm sẽ phải cứu lấy hàng triệu con dân như thế nào và trả lời sao trước giông linh của liệt tổ hoàng triều? Chính vì lý do này Trẫm đã ra lệnh chấp nhận các điều khoản trong tuyên bố chung của các cường quốc''.|||Hirohito
}}
 
Dòng 204:
 
=== Thay đổi chính thể ===
Thời kỳ [[Nhật Bản bị chiếm đóng]], [[chính quyền]] được gọi là Đế quốc Nhật Bản bị chính thức giải thể. [[Hoa Kỳ]] chiếm đóng Nhật Bản cùng với sự trợ giúp về [[kinh tế]] và [[chính trị]] tiếp tục tiến triển tốt đẹp cho đến thập niên 1950. Sau khi Đế quốc Nhật Bản bị giải thể, nước Nhật áp dụng một [[hệ thống chính trị nghị viện]] trong đó [[Nhật hoàng|Thiên hoàng]] chỉ có quyền lực tượng trưng. Nhật Bản trở thành đồng minh thân thiện của Hoa Kỳ, Anh,… và là đồng minh kinh tế của nhiều quốc gia khác trên thế giới.
 
Tướng quân đội Hoa Kỳ [[Douglas MacArthur]], tư lệnh tối cao lực lượng Đồng Minh tại tây nam [[Thái Bình Dương]] trong Chiến tranh thế giới thứ hai sau nầy có phát biểu về chính quyền mới và thời kỳ mới của Nhật Bản như sau:
Dòng 253:
***[[Mitsuru Ushijima]] - [[Trận Okinawa]]
 
=== NhậtThiên hoàng ===
<table class="wikitable">
 
Dòng 292:
</tr>
<tr style="background:#efefef;">
<td colspan="6"><small>'''2''' NhậtThiên hoàng không có họ hay tên triều đại</small></td>
</tr>
<tr style="background:#efefef;">
Dòng 304:
</tr>
<tr style="background:#efefef;">
<td colspan="6"><small>'''6''' Theo hiến pháp. ChiêuHirohito Hòatiếp Thiêntục hoànglàm tiếp tụcvua cho đến [[1989]] vì không thoái vị sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai]].</small></td>
</tr>
</table>
 
== Chú thích ==
{{reflist}}
 
== Liên kết ngoài ==