Khác biệt giữa bản sửa đổi của “George Gordon Byron, Nam tước Byron thứ 6”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{1000 bài cơ bản}}{{Infobox Writer
| name = Lord Byron
| image = George_GordonByronByron_1813_by_Phillips.jpg
| bgcolour = silver
| imagesize = 195px
Dòng 24:
}}
 
'''George Gordon Noel Byron, chúanam tước Byron đời thứ 6''' (1788 – 1824) là [[nhà thơ]] [[lãng mạn]] nước Anh, thường được biết đến là ''Lord Byron''. Ông được coi là một trong những nhà thơ lớn của thế giới [[thế kỷ 19]]. Ông được biết đến với lối sống tai tiếng về tình ái của mình cách''rất sửđiên dụngrồ, tuyệtrất vờitồi vềtệ, ngônrất ngữnguy tiếnghiểm Anhđể quen biết.''
 
== Tiểu sử ==
===Đầu đời===
Byron sinh ở [[Luân Đôn|London]], trong một gia đình quý tộc đã sa sút.
[[Tập tin:Ada lovelace.jpg|nhỏ|trái|150px|Ada Lovelace, con gái của Byron là một nhà khoa học nổi tiếng thế giới]]
 
ByronNăm sinh1790, người [[Luâncha Đôn|London]]qua đời, trongnên mộtmẹ gia đình quýCatherine tộcbồng đãcon về Scotland, saquê sútngoại. Năm 1798, George được thừa kế danh hiệu từ người chú tuyệt vời của mình ở tuổi 10 và được chính thức công nhận là ''Lord Byron''. Hai năm sau, ông đã học Harrow School và tham dự Trinity college của Cambridge.
 
===Công việc===
Trong những tác phẩm ''The Giaour'' (1813), ''The Bride of Abydos'' (1813), ''The Corsair'' (1814), ''Lara'' (1814), ''The Siege of Corinth'' (1816) Byron kêu gọi đấu tranh giành tự do. Những năm 1817-1820 Byron sống ở [[Venezia]], cảm thông với nỗi khổ của người [[Ý]] trước ách cai trị của người [[Áo]]. Thời kỳ này ông viết một số trường ca và 2 chương tiếp theo của ''Childe Harold's Pilgrimage''. Những năm [[1818]]-[[1819]] ông viết trường ca ''Don Juan'' gồm 16 chương và chương 17 viết dở. Năm 1823 ông sang [[Hy Lạp]] để tham gia đấu tranh giải phóng Hy Lạp khỏi ách cai trị của [[Thổ Nhĩ Kỳ]] nhưng công việc đang dở dang thì ông bị sốt và mất ngày 19 tháng 4 năm [[1824]] vào tuổi 36 tại [[Mesolongi]], ở Hy Lạp ngày nay. Thi thể của ông đã được đưa trở lại nước Anh và chôn ở Nottinghamshire.
Năm 1807 in tập ''Hours of Idleness'' (Những giờ giải trí), năm 1809 in trường ca ''English Bards and Scotch Reviewers'' (Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình [[Scotland]]) phê phán những nhà [[lãng mạn]] quá khích. Từ năm [[1809]] là thành viên [[nghị viện]] [[Anh]], sau đó bắt đầu 2 năm đi chu du sang các nước khu vực [[Địa Trung Hải]]. Năm [[1812]] in 2 chương đầu của ''Chuyến hành hương của Childe Harold'' (Childe Harold's Pilgrimage) kể lại chuyến đi [[Nam Âu]] và [[Cận Đông]].
==Sự nghiệp chính trị==
Năm 1807 in tập ''Hours of Idleness'' (Những giờ giải trí), năm 1809 in trường ca ''English Bards and Scotch Reviewers'' (Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình [[Scotland]]) phê phán những nhà [[lãng mạn]] quá khích. Từ năm [[1809]] là thành viên [[nghị viện]] [[Anh]], sau đó bắt đầu 2 năm đi chu du sang các nước khu vực [[Địa Trung Hải]]. Năm [[1812]] in 2 chương đầu của ''Chuyến hành hương của Childe Harold'' (Childe Harold's Pilgrimage) kể lại chuyến đi [[Nam Âu]] và [[Cận Đông]].
 
Từ năm [[1809]] là thành viên [[nghị viện]] [[Anh]], sau đó bắt đầu 2 năm đi chu du sang các nước khu vực [[Địa Trung Hải]].
 
Năm [[1812]], phát biểu trước [[nghị viện]], Byron tố cáo tầng lớp thống trị ở [[Anh]] và đòi hủy bỏ luật tử hình những người công nhân phá máy.
 
Năm 1823 ông sang [[Hy Lạp]] để tham gia đấu tranh giải phóng Hy Lạp khỏi ách cai trị của [[Thổ Nhĩ Kỳ]] nhưng công việc đang dở dang thì ông bị sốt và mất ngày 19 tháng 4 năm [[1824]] vào tuổi 36 tại [[Mesolongi]], ở Hy Lạp ngày nay. Thi thể của ông đã được đưa trở lại nước Anh và chôn ở [[Nottinghamshire]].
Đối mặt với áp lực gia tăng là kết quả của cuộc hôn nhân thất bại của mình, vấn đề tai tiếng và khoản nợ khổng lồ, Byron rời nước Anh vào tháng Tư 1816 và không bao giờ quay trở lại. Ông đã dành mùa hè vào năm 1816 tại hồ Geneva ở Thụy sỹ với bạn thân là vợ chồng [[Percy Bysshe Shelley]] và em gái cùng cha khác mẹ của ông là Claire Clairmont, người mà Byron đã có một cô con gái.
 
==Mối quan hệ tai tiếng và tác phẩm==
[[Tập tin:Annabella Byron (1792-1860).jpg|nhỏ|phải|200px|Anne Isabella Milbanke]]
[[Tập tin:Ada lovelace.jpg|nhỏ|trái|150px|Ada Lovelace, con gái của Byron là một nhà khoa học nổi tiếng thế giới]]
[[Tập tin:Jane elizabeth countess-of-oxford1797 john hoppner.jpg|nhỏ|phải|200px|AugustaLady LeighOxford]]
 
Cuộc sống riêng tư của Byron bắt đầu nổi lên từ 1812, khi ông có cuộc tình với Lady Caroline Lamb - tiểu thuyết gia, vợ của tử tước William Lamb. Mối quan hệ diễn ra khá ngắn ngủi, ông chủ động chia tay để theo một người lớn hơn mình 20 tuổi, bà Oxford, nhưng Caroline thì không bao giờ quên được. Bà theo đuổi ông ngay cả khi ông đã chán nản, mệt mỏi vì bà. Nhà thơ nhẫn tâm phải than phiền với mẹ chồng của Caroline rằng: "Tôi đang bị một bộ xương săn đuổi". Về sau, người phụ nữ quý tộc cay đắng thừa nhận rằng, Byron là một kẻ "rất điên rồ, rất tồi tệ, rất nguy hiểm để quen biết".
 
Khi còn nhỏ, Byron khá gắn bó với Augusta Leigh - chị cùng cha khác mẹ của ông. Mối quan hệ này về sau trở thành tình ái lúc byron trưởng thành và là vụ loạn luận nổi tiếng lúc bấy giờ. Từ năm 1811, Augusta sống ly thân với chồng nhưng đến tháng 4/1814, Augusta vẫn sinh hạ một bé gái tên là Elizabeth Medora Leigh. Một số người đồn đại Byron là cha của Elizabeth.
 
Byron trở về London làm lại cuộc đời. Ông lập gia đình với một cô gái ngây thơ, trong trắng - Anna Isabella Mibark, nhỏ hơn ông bốn tuổi. Cuộc hôn nhân không hạnh phúc, ông đối xử tàn nhẫn với cô. Họ đã có một đứa con gái (Augusta Ada). Ngày 16 tháng 1 năm 1816, họ ly hôn.
 
Đối mặt với áp lực gia tăng là kết quả của cuộc hôn nhân thất bại của mình, vấn đề tai tiếng và khoản nợ khổng lồ, Byron rời nước Anh vào tháng Tư 1816 và không bao giờ quay trở lại. Ông đã dành mùa hè vào năm 1816 tại hồ Geneva ở Thụy sỹ với bạn thân là vợ chồng [[Percy Bysshe Shelley]] và em gái cùng cha khác mẹ của ông là Claire Clairmont, người mà Byron đã có thêm một cô con gái.
 
Byron đi đến Ý, nơi ông đã sống trong hơn sáu năm. Năm 1819, trong khi lưu trú tại Venice, ông bắt đầu ngoại tình với Teresa Guiccioli, vợ của một nhà quý tộc Ý. Đó là vào khoảng thời gian này mà Byron đã viết một số tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, bao gồm cả 'Don Juan' (1819-1824).
 
Trong một lá thư, Augusta dẫn lời ông nói: Những vết thương do tình yêu gây ra dù không làm cho người ta chết nhưng cũng không bao giờ chữa khỏi được". Cùng năm đó Lady Caroline xuất bản cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của cô là ''Glenarvon''.
Trong những tác phẩm ''The Giaour'' (1813), ''The Bride of Abydos'' (1813), ''The Corsair'' (1814), ''Lara'' (1814), ''The Siege of Corinth'' (1816) Byron kêu gọi đấu tranh giành tự do. Những năm 1817-1820 Byron sống ở [[Venezia]], cảm thông với nỗi khổ của người [[Ý]] trước ách cai trị của người [[Áo]]. Thời kỳ này ông viết một số trường ca và 2 chương tiếp theo của ''Childe Harold's Pilgrimage''. Những năm [[1818]]-[[1819]] ông viết trường ca ''Don Juan'' gồm 16 chương và chương 17 viết dở. Năm 1823 ông sang [[Hy Lạp]] để tham gia đấu tranh giải phóng Hy Lạp khỏi ách cai trị của [[Thổ Nhĩ Kỳ]] nhưng công việc đang dở dang thì ông bị sốt và mất ngày 19 tháng 4 năm [[1824]] vào tuổi 36 tại [[Mesolongi]], ở Hy Lạp ngày nay. Thi thể của ông đã được đưa trở lại nước Anh và chôn ở Nottinghamshire.
 
==Chủ nghĩa Byron==
Hàng 47 ⟶ 66:
[[Tập tin:Lord Byron in Albanian dress.jpg|nhỏ|phải|200px|Lord Byron]]
[[Tập tin:Lord Byron coloured drawing.png|nhỏ|phải|200px|Lord Byron]]
[[Tập tin:Annabella Byron (1792-1860).jpg|nhỏ|phải|200px|Anne Isabella Milbanke]]
[[Tập tin:Jane elizabeth countess-of-oxford1797 john hoppner.jpg|nhỏ|phải|200px|Augusta Leigh]]
 
*''Những giờ nhàn rỗi'' (Hours of Idleness,1806)