Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Đình Thứ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
| tên= '''PHAN ĐÌNH THỨ
| hình=
| biệt danh= '''Lam Sơn'''<ref> Khi còn là một Thiếu úy trong Quân đội Viễn chinh Pháp đóng quân ở Lào, ông kết hôn với một thiếu nữ người Lào gốc Việt và có người con trai đầu tiên đặt tên là Phan Đình '''Lam Sơn'''. Về sau, ông lấy tên của người con này làm biệt danh cho mình.</ref>
| tên= Phan Đình Thứ
| ngày mấtsinh= '''{{ngày mất và tuổi|2002|7|23sinh|1919|4|22}}
| biệt danh= Lam Sơn (1)
| ngày sinhmất= '''{{ngày sinhmất và tuổi|2002|7|23|1919|4|22}}
| ngày mất= {{ngày mất và tuổi|2002|7|23|1919|4|22}}
| nơi sinh= [[Thừa Thiên]], [[Việt Nam]]
| nơi mất= '''[[Sài Gòn|TpThành phố HCM]]
| thuộcphục vụ= '''[[Tập tinHình: GOFVNflagFlag of South Vietnam.jpgsvg|22px40px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hoàhòa]]
| thuộc= '''[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|36px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
| năm phục vụ= '''1937-1973
| cấp bậc= '''[[Tập tinHình: US-O7 insignia.svg|14px16px]] [[Chuẩn tướng]]
| đơn vị= '''-[[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 13 Khinh chiến]]<br/>[[Hình: ARVN 23rd Division Insignia.svg|20px]] [[Sư đoàn 23 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 16 Khinh chiến]]<br/>[[Hình: 81st Airborne Commando Battalion.svg|20px]] [[Lực lượng Biệtđặc động quânbiệt Việt Nam Cộng hòa|BinhLực chủnglượng BiệtĐặc động quânbiệt]]<br/>[[Hình: Cư an tư nguy.svg|20px]] [[Trường Bộ binh Thủ Đức|Trường Sĩ quan Trừ bịkhoa Thủ Đức]]<br/>[[Hình: Vietnamese Rangers SSI.svg|20px]] [[Lực lượng đặcBiệt biệtđộng quân Việt Nam Cộng hòa|BinhBiệt chủngđộng Lực lượng Đặc biệtquân]]<br/>[[Hình: ARVN Capital Military Zone Unit SSI.svg|20px]] [[Biệt khu Thủ đô]]<br/>[[Hình: QD II VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn II (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn II và QK 2]]<br/>[[Hình: QD III VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III và QK 3]]
| chỉ huy= '''[[Hình: Flag of France.svg|22px26px]] [[Quân đội Pháp|Quân đội Viễn chinh Pháp]]<br/>[[Hình: Flag of France.svg|22px26px]] [[Quân đội Pháp|Quân đội Liên hiệp Pháp]]<br/>[[Hình: Flag of Souththe VietnamVietnamese National Army.svg|22px26px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br/>[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px26px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân kực VNCH]]
| công việc khác= '''[[Lãnh sự|Tuỳ viên Quân sự]]
}}
 
'''Phan Đình Thứ''' (1919-2002), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ trường Võ bị Lục quân của Pháp và phục vụ trong Quân đội Viễn chinh Pháp cho đến năm 1950 mới hồi hương. Ông nguyên là Chỉ huy trưởng [[Trường Bộ binh Thủ Đức|Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức]], nguyên Tư lệnh Binh chủng [[Lực lượng đặc biệt]] và nguyên Chỉ huy trưởng Binh chủng [[Biệt Động Quân]]. Ông cũng là một sĩ quan đeo cấp bậc Đại tá lâu nhất (1958-1971).
 
==Tiểu sử & binh nghiệp==
Hàng 29 ⟶ 30:
 
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Năm 1952, Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu, ông được chuyển sang phục cơ cấu mới này. Năm 1954, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được cử đi học khóa Trung đoàn trưởng tại Trung tâm nghiên cứu Quân sự, Hà Nội.<ref> Còn gọi là Trung tâm Chiến thuật Hà nội. Năm 1954 di chuyển vào Nam đổi tên là trường Đại học Quân sự, năm 1960 chuyển lên Đà ''(tiềnLạt thântrở củathành trường Chỉ huy & Tham mưu)''.</ref> Học cùng khóa với ông còn có Thiếu tá [[Nguyễn Văn Thiệu]] và Đại úy [[Nguyễn Chánh Thi]].
 
===Quân đội Việt nam Cộng hòa===
Năm 1955, Quân đội quốc gia được cải danh thành [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]], ông được thăng cấp [[Trung tá]] và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 16 Khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 23 Bộ binh)'' đóng tại Đông Hà, Quảng Trị. Cuối năm 1957, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 16 Khinh chiến lại cho Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]]. Đầu năm 1958 (2), ông được thăng cấp [[Đại tá]]<ref> Có tài liệu viết tướng [[Phan Đình Thứ]] sinh năm 1916 tại Hà Tĩnh, thăng cấp Đại tá năm 1956 và Chuẩn tướng năm 1972. Tuy nhiên, trong bài này ghi ông sinh năm 1918 và thăng cấp Đại tá năm 1958, Chuẩn tướng 1971 là theo sách "Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa", vì các soạn giả '''Trần Ngọc Thống , Hồ Đắc Huân'''... nguyên là những sĩ quan cao cấp từng phục vụ trong những bộ phận có liên quan đến Ban Quân sử và Trung tâm Hồ sơ Cá nhân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hơn nữa, các vị này cũng đã trực tiếp gặp hoặc trao đổi bằng thư từ và điện thoại với các cựu tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa về các chi tiết trước khi viết tiểu sử của họ trong sách nói trên.</ref> thay thế Đại tá [[Lâm Văn Phát]] làm Tư lệnh Sư đoàn 13 Khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 21 Bộ binh)'', đồn trú tại Bến Kéo, Tây Ninh. Tháng 12 cùng năm, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1959, ông vi phạm kỷ luật ở trường nên bị triệu hồi về nước và được cử đi làm Sĩ quan Tùy viên Quân sự cạnh Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thủ đô Manila của Philippines.
 
Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông được cử thay thế Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]] giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân.<ref> (3)Chỉ huy trưởng thứ ba của Binh chủng Biệt động quân, sau Thiếu tá '''Lữ Đình Sơn''' và Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]].</ref> Giữa tháng 5 năm 1962, ông nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Biệt động quân lại cho Đại tá [[Tôn Thất Xứng]]. Cùng thời điểm ông được chỉ định vào chức vụ Chỉ huy trưởng Liên trường Võ khoa Thủ Đức<ref> (4)Chỉ huy trưởng thứ năm của trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, sau Đại tá '''Phạm Văn Cảm''', Thiếu tướng [[Lê Văn Nghiêm]], Đại tá [[Nguyễn Văn Chuân]] và Đại tá [[Hồ Văn Tố]].</ref> thay thế Thiếu tướng [[Hồ Văn Tố]] vừa từ trần. Ông đã sáng kiến ghi thêm 4 chữ "Cư An Tư Nguy" trên phù hiệu của trường.<ref> Bốn chữ ''('Cư An Tư Nguy''' có nghĩa là: Muốn sống yên ổn thì phải nghĩ đến lúc hiểm nguy. Suy rộng ra: Muốn hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh)''.</ref> Trong thời gian đương nhiệm, ông đã tổ chức lễ mãn khóa cho 3 khóa Sĩ quan Trừ bị là khóa 12 Trần Hưng Đạo, khóa 13 Ấp Chiến Lược và khóa 14 Nhân Trí Dũng. Đầu tháng 8 năm 1963, Liên trường Võ khoa Thủ Đức trở lại tên gọi ban đầu là trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.
 
Đầu tháng 11 năm 1963, ông được lệnh bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức lại cho Thiếu tướng [[Trần Ngọc Tám]]. Trung tuần tháng 2 năm 1964, ông được cử làm Tư lệnh Binh chủng Lực lượng Đặc biệt<ref> (5)Tư lệnh thứ ba của Binh chủng Lực lượng Đặc biệt sau Đại tá [[Lê Quang Tung]] và Trung tướng [[Lê Văn Nghiêm]]</ref> thay thế Trung tướng [[Lê Văn Nghiêm]] đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự. Tháng 8 cùng năm, bàn giao chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá [[Đoàn Văn Quảng]] ''(nguyên Chỉ huy trưởng Biệt động quân Vùng 3 Chiến thuật)''. Sau đó ông được chuyển về Bộ Tổng tham mưu nhận nhiệm vụ trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị với chức vụ Tổng cục phó đặc trách về Thể dục & Thể thao. Tháng 9 năm 1969, ông được tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]] đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. Thời điểm này, ông đã sáng kiến xây dựng "Nghĩa Dũng đài" trước trại Chương Dương của Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt ở Nha Trang để tưởng niệm các anh hùng tử sĩ của Binh chủng đã hy sinh vì Tổ Quốc.
 
Đầu năm 1970, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Thiếu tướng [[Phạm Văn Phú]]. Ngay sau đó, ông được về Sài Gòn giữ chức vụ Phụ tá Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tháng 6 cùng năm, thuyên chuyển đến Quân đoàn III giữ chức vụ Tư lệnh phó Lãnh thổ Quân khu 3 kiêm Chỉ huy trưởng Địa phương quân & Nghĩa quân thuộc Quân khu. Đầu năm 1971, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm. Năm 1972, thuyên chuyển ra Quân khu 2, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng.<ref> Một lần nữa thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]]. Tướng Quảng được điều về Sài Gòn làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung.</ref>
 
: -''Vào một buổi tối tháng 9 năm 1972, tại Tổng hành dinh Quân đoàn II ở Pleiku, một viên Trung sĩ người Thượng tinh thần bất ổn do uống rượu say đứng ở cổng, tay cầm lựu đạn đã rút chốt chờ tướng Lam Sơnông về để ám sát. Quân cảnh đến can thiệp đương sự không chịu. Khi tướng, Lamkhi Sơnông về khuyến cáo cũng không nghe. Tướng Lam SơnÔng đã dùng súng nấp ở sau bờ tường dùng súng bắn, khiến đương sự ngã quỵ khiến, lựu đạn nổ làm người Hạ sĩ quan này bị trọng thương và sau đó tử vong.
Năm 1972, thuyên chuyển ra Quân khu 2, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng ''(lại một lần nữa thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]], tướng Quảng được điều về làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung).
: -''Vào một buổi tối tháng 9 năm 1972, tại Tổng hành dinh Quân đoàn II ở Pleiku, một viên Trung sĩ người Thượng tinh thần bất ổn do uống rượu say đứng ở cổng, tay cầm lựu đạn đã rút chốt chờ tướng Lam Sơn về để ám sát. Quân cảnh đến can thiệp đương sự không chịu. Khi tướng Lam Sơn về khuyến cáo cũng không nghe. Tướng Lam Sơn đã dùng súng nấp ở sau bờ tường bắn, đương sự ngã quỵ khiến lựu đạn nổ bị trọng thương và sau đó tử vong.
 
Sau sự việc trên, ông bị đưa về tạm giam tại Đề lao Chí Hòa để điều tra. Ngày 29 tháng 11 ra Tòa án Mặt trận Quân sự, ông bị xử án 5 năm tù treo về tội cố ý đả thương và dẫn đến tử vong của viên Hạ sĩ quan nói trên. Đầu năm 1973, ông bị buộc phải giải ngũ.
Dòng 47:
===Được tặng thưởng Huy chương===
Trong cuộc đời binh nghiệp ông được thưởng nhiều huân, huy chương của Việt Nam Cộng hòa, Pháp, Mỹ và đặc biệt là Lào.
:'''-Huy chương Việt Nam Cộng hòa:
-Đệ tam đẳng Bảo quốc Huân chương -Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương<br/>-Lục quân Huân chương -Biệt công Bội tinh<br/>-Chiến thương Bội tinh -Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu<br/>-Anh dũng Bội tinh với ngôi Sao vàng -10 lần Tuyên dương Công trạng trước Quân đội.
:'''-Huy chương Pháp:
-Legion D’Honneur (Bắc đẩu Bội tinh, Pháp)<br/>-Croix De Gùerre 1942-1946 (Chiến dịch Bội tinh cho những sĩ Quan tham dự trận Đại chiến thứ 2)<br/>-Medaille De La Résistance 1943 (Huy chương Bảo vệ nước Pháp), do Tổng thống Charles De Gaulle trao tặng những sĩ Quan đã bảo vệ nước Pháp trong trậnChiến tranh thế giới thứ hai 1943.
:'''-Huy chương Mỹ:
-Silver Star, do Đại tướng Westmoreland gắn tại Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc Biệt Nha Trang.
:'''-Huy chương Lào:
-Huy chương Bạch tượng, do Quốc Vương Lào gắn.
 
==1975==
Sau ngày 30 tháng 4, ông ra trình diện Ban Quân quản của Chính quyền mới, bị đưa đi tù cũng như các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa khác và bị đưa ra miền Bắc Việt Nam tập trung ở trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh. Khi đi cải tạo, vì bị mất liên lạc với gia đình, ông không được thăm nuôi, nên được gọi là tướng mồ côi.<ref> ''(Cùng cảnh ngộ "mồ côi" với ôngtướng '''Lam Sơn''', còn có tướng [[Dương Văn Đức]] và tướng [[Hồ Trung Hậu)]].</ref>
 
Mười ba năm sau (1988) ông được trả tự do và được lên danh sách đi Mỹ theo chương trình H.O, nhưng ông từ chối vì một phần muốn ở lại quê hương, một phần không muốn xa 3 người con đã có gia đình không được đi theo chương trình H.O. Sau đó, với sự bảo trợ của Bộ Tư lệnh Nhảy dù Pháp, Chính phủ Pháp đã đồng ý cho cả gia đình của ông qua Pháp vào năm 1989.
 
Năm 1995, ông một mình trở về sống những chuỗi ngày còn lại ở quê hương Việt Nam và từ trần tại TpThành phố HCM (Sài Gòn) vào ngày 23 tháng 07 năm 2002. Hưởng thọ 83 tuổi.
 
==Gia đình==
TừÔng thời gian ông phục vụ ở Quân đội Viễn chinh Pháp đóng quân ở Lào ''(lập gia đình với người vợ đầu tiên tại Lào. và có người con trai đầu lòng đặt tên là Phan Đình Lam Sơn)'' choCho đến sau này, ông có tất cả 6 người vợ và có 10 người con gồm: 7 trai, 3 gái.
 
==Tham khảo==
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
 
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
*(1) -Biệt danh Lam Sơn là ông lấy tên của người con trai đầu sinh ở Lào.
 
*(2) -Có bài viết: Tướng Phan Đình Thứ sinh năm 1916 tại Hà Tĩnh, thăng cấp Đại tá năm 1956 và cấp Chuẩn tướng năm 1972. Tuy nhiên, trong bài viết này ghi năm 1958 tướng Thứ thăng cấp Đại tá và năm 1971 thăng cấp Chuẩn tướng là viết theo sách "Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa", vì các soạn giả Trần Ngọc Thống và Hồ Đắc Huân... nguyên là những sĩ quan cao cấp từng phục vụ trong ban Quân sử và Trung tâm Hồ sơ Cá nhân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hơn nữa, họ cũng đã trực tiếp gặp hoặc trao đổi bằng thư từ và điện thoại với các cựu tướng của Việt Nam Cộng hòa về các chi tiết trước khi viết tiểu sử của các tướng lĩnh trong sách nói trên.
==Tham khảo==
: -''Thực ra vào đầu năm 1964, khi tướng Nguyễn Khánh thực hiện cuộc Chỉnh lý các tướng lãnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng để lên nắm quyền lãnh đạo. Ngay thời điểm này tướng Khánh đã ký quyết định thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Lam Sơn. Nhưng vì bất đồng quan điểm với tướng Khánh, trong lòng cũng không ưa gì tướng Khánh, nên Đại tá Lam Sơn đã từ chối không nhận cấp bậc được thăng.
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
*(3) -Chỉ huy trưởng thứ ba của Binh chủng Biệt động quân sau Thiếu tá Lữ Đình Sơn và Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]].
*(4) -Chỉ huy trưởng thứ năm của trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, sau Đại tá Phạm Văn Cảm, Thiếu tướng [[Lê Văn Nghiêm]], Đại tá [[Nguyễn Văn Chuân]] và Thiếu tướng [[Hồ Văn Tố]].
*(5) -Tư lệnh thứ ba của Binh chủng Lực lượng Đặc biệt sau Đại tá [[Lê Quang Tung]] và Trung tướng Lê Văn Nghiêm.
 
==Liên kết ngoài==