Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Andrey Sergeyevich Arshavin”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 12:
| position = [[Tiền vệ (bóng đá)|Tiền vệ]], [[Tiền đạo (bóng đá)|Tiền đạo lùi]]
| youthyears1 = 1999–2000
| youthclubs1 = [[
| years1 = 2000–2008
| clubs1 = [[F.K. Zenit Sankt Peterburg|Zenit]]
Dòng 58:
== Sự nghiệp cấp câu lạc bộ ==
==== Zenit
Arshavin tốt nghiệp [[trường bóng đá Smena]]. Năm 1999 và đầu năm 2000, anh chơi cho đội trẻ của Zenit và Zenit-2 tại [[giải hạng nhì nước Nga]].
Năm 2000, anh được vào đội hình chính thức của Zenit. Anh chơi ở nhiều vị trí, khởi đầu từ vị trí [[tiền vệ (bóng đá)|tiền vệ]] phải, sau đó là tiền vệ tấn công và cuối cùng là [[tiền đạo (bóng đá)|tiền đạo]] nhưng anh thường đá cánh hoặc hỗ trợ cho tiền đạo còn lại cắm ở trên. Năm
Năm
Tại [[cúp UEFA Europa League|cúp UEFA]], năm 2006, Arshavin ghi 5 bàn trong 13 trận góp phần giúp Zenit vào đến [[tứ kết]]. Mùa bóng 2007/2008, phong độ xuất sắc của anh đã đưa Zenit vào đến tận trận chung kết cúp UEFA gặp [[Rangers F.C.]] và trận thắng 2-0 trong đó Arshavin được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu đã đem về chiếc cúp UEFA lần đầu tiên trong lịch sử cho Zenit St.
==== Arsenal ====
Dòng 77:
[[Tập tin:Andrey Arshavin.jpg|nhỏ|trái|Arshavin thực hiện quả phạt góc]]
Với những dấu ấn chưa thực sự rõ rệt ở những trận đấu vừa qua, nhiều người bắt đầu đặt dấu hỏi cho khả năng hòa nhập của Arshavin với môi trường tại Arsenal và bóng đá Anh. Và trận đấu với [[Blackburn Rovers F.C.|Blackburn Rovers]] vào ngày [[14 tháng 3]] 2009 là câu trả lời cho mọi dấu hỏi. Đó là trận đấu mà Arshavin đã trực tiếp lao vào đệm bóng cận thành ghi bàn thắng đầu tiên trước khi trình diễn một pha solo siêu hạng để ghi bàn thắng thứ 2 cho các pháo thủ. Cùng với đó là những đường kiến tạo và phối hợp cục kì ăn ý với các đồng dội để tạo nên chiến thắng tưng bừng 4-0 cho Arsenal.<ref>{{chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/sport1/hi/football/eng_prem/7922059.stm| title=Arsenal 4-0 Blackburn Rovers| publisher=[[BBC Sport]]| date=ngày 14 tháng 3 năm 2009| accessdate=ngày 14 tháng 3 năm 2009}}</ref> Arshavin ghi 1 bàn trong trận Arsenal chiến thắng 4-1 trước [[Wigan Athletic F.C.|Wigan Athletic]] ngày [[11 tháng 4]] năm 2009.<ref>{{chú thích báo| url=http://news.bbc.co.uk/sport1/hi/football/eng_prem/7978865.stm| title=Wigan 1-4 Arsenal| publisher=[[BBC Sport]]| date=ngày 11 tháng 4 năm 2009| accessdate=ngày 11 tháng 4 năm 2009}}</ref> Trận đấu lúc 20 giờ ngày [[21 tháng 4]] năm
Ngày [[2 tháng 5]] năm 2009, Arshavin lần đầu tiên được mang băng đội trưởng Arsenal trong trận đấu với [[Portsmouth F.C.|Portsmouth]] trên sân khách. Trong trận đấu đó Arsenal chiến thắng với tỉ số 3-0, Arshavin có hai đường chuyền kiến tạo cho đồng đội ghi bàn và tạo ra một quả penalty gây tranh cãi.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.dailymail.co.uk/sport/football/article-1176840/Honest-Arshavin-Ref-Mason-wrong-Arsenal-penalty-Portsmouth.html?ITO=1490 | title=Liverpool 4-4 Arsenal }}</ref> Ngày [[8 tháng 5]] năm 2009, anh được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất tháng 4 của Premier League.<ref>{{chú thích báo| url=http://www.skysports.com/story/0,19528,11095_5300494,00.html | title=Fergie & Arshavin win awards: United boss and Arsenal schemer recognised for April efforts | publisher=Sky Sports News| date=8 tháng 5, 2009 | accessdate=8 tháng 5, 2009}}</ref>
Dòng 102:
===Trở lại Zenit===
Ngày 27 tháng 6 năm 2013, Arshavin đã ký hợp đồng có thời hạn hai năm với Zenit Saint
== Sự nghiệp quốc tế ==
Dòng 108:
Arshavin có trận đầu tiên cho đội tuyển Nga vào ngày [[17 tháng 5]] năm [[2002]] trong trận gặp [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Belarus|Belarus]]. Tại [[vòng loại World Cup 2006]], anh ghi được 5 bàn cho đội tuyển Nga nhưng Nga đã không thể vượt qua vòng loại.
Ngày [[24 tháng 3]] năm
Thẻ đó trực tiếp của Arshavin trong trận cuối cùng của vòng loại Euro 2008 gặp [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Andorra|Andorra]] đã khiến anh bị cấm thi đấu 2 trận đầu tiên tại Euro 2008 gặp Tây Ban Nha và Hi Lạp. Điều này cộng với chấn thương của [[Pavel Pogrebniak]] khiến hàng công Nga trở nên suy yếu ngay từ đầu giải. Nhưng khi trở lại trong trận gặp [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển|Thụy Điển]] ngày [[18 tháng 6]], anh đã ghi bàn ấn định tỉ số 2-0 ở phút 60 đưa Nga vào tứ kết gặp Hà Lan.<ref>[http://www3.tuoitre.com.vn/EURO2008/Index.aspx?ArticleID=264210&ChannelID=512 Nga xuất sắc vào tứ kết]</ref>
Dòng 114:
Tại vòng tứ kết, trái với nhiều dự đoán, Nga đã đánh bại ''[[Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan|Cơn lốc màu da cam]]'' với tỉ số 3-1. Trong trận đấu này, Arshavin được bầu làm "Cầu thủ xuất sắc nhất trận" vì sự thể hiện xuất sắc; cụ thể là 2 đường chuyền thành bàn và một bàn ấn định tỉ số 3-1 vào những phút cuối hiệp phụ thứ 2.<ref>[http://www3.tuoitre.com.vn/EURO2008/Index.aspx?ArticleID=264840&ChannelID=524 Arshavin nhận giải cầu thủ xuất sắc nhất trận Nga-Hà Lan]</ref> Nga bước tiếp vào vòng bán kết Euro, đó là kết quả tốt nhất của đội bóng nước này kể từ khi [[Liên Xô]] sụp đổ. Mặc dù đội tuyển Nga bị thua [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha|Tây Ban Nha]] với tỉ số 0-3 trong trận bán kết Euro 2008, nhưng Arsavin vẫn được bầu chọn trong đội hình lí tưởng châu Âu năm 2008 do [[Liên đoàn bóng đá châu Âu|UEFA]] bình chọn (đội hình này còn có một cầu thủ khác của Nga là Zyryanov).<ref>{{chú thích báo | title = Spain dominate Team of the Tournament | url = http://en.euro2008.uefa.com/news/kind=1/newsid=729372.html#spain+dominate+team+tournament | publisher = euro200.uefa.com | date = ngày 30 tháng 6 năm 2008 | accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2008}}</ref>
Ngày [[10 tháng 9]] năm
== Thống kê sự nghiệp cấp câu lạc bộ ==
Dòng 256:
|<center>1 ||{{dts|format=dmy|2003|02|13}} ||[[Sân vận động Tsirion]], [[Limassol]], [[Síp]] ||{{fb|Romania}}<sup>[[#ded1|Note]]</sup> ||<center>'''3''' – 1 ||<center>4 – 2 || Giao hữu
|-
|<center>2 ||{{dts|format=dmy|2004|10|09}} ||[[Sân vận động Josy Barthel]], [[Thành phố Luxembourg
|-
|<center>3 ||{{dts|format=dmy|2004|10|13}} ||[[Sân vận động José Alvalade]], [[Lisboa
|-
|<center>4 ||{{dts|format=dmy|2005|03|30}} ||[[A. Le Coq Arena]], [[Tallinn]], [[Estonia]] ||{{fb|Estonia}} ||<center>0 – '''1''' ||<center>1 – 1 || Vòng loại World Cup 2006
|-
|<center>5 ||{{dts|format=dmy|2005|06|04}} ||[[Sân vận động Petrovsky]], [[Sankt-Peterburg
|-
|<center>6 ||{{dts|format=dmy|2005|06|08}} ||[[Borussia Park]], [[Mönchengladbach]], [[Đức]] ||{{fb|Germany}} ||<center>2 – '''2''' ||<center>2 – 2 || Giao hữu
Dòng 291:
== Danh hiệu ==
=== Câu lạc bộ ===
{{flagicon|Nga}} [[F.K. Zenit
* [[Giải bóng đá ngoại hạng Nga]]:
* [[Siêu cúp bóng đá Nga]]:
* [[Cúp Liên đoàn bóng đá Nga]]: [[2003]]
* [[
* [[Siêu cúp bóng đá châu Âu|Siêu cúp châu Âu]]: 2008
=== Cá nhân ===
*
*
*
*
* Cầu thủ xuất sắc nhất giải ngoại hạng Anh: tháng 4 năm 2009
* Cầu thủ xuất sắc nhất câu lạc bộ Arsenal: tháng 3 và 4 năm 2009
|