Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Công lam Ấn Độ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 30:
 
==Phân loại và đặt tên==
 
[[Tập tin:Peacock in display by N A Nazeer.jpg|thumb|left|300px|Chim công trống đang xòe đuôi]]
Công Ấn Độ là một trong nhiều loài được [[Carolus Linnaeus]] miêu tả lần đầu trong tác phẩm ''[[Systema Naturae]]'' của ông năm 1758 và cho đến nay danh pháp khoa học vẫn sử danh pháp ban đầu là ''Pavo cristatus''.<ref>{{la icon}} {{chú thích sách | last=Linnaeus | first=Carl | authorlink=Carolus Linnaeus | title=Systema naturae per regna tria naturae, secundum classes, ordines, genera, species, cum characteribus, differentiis, synonymis, locis. Tomus I. Editio decima, reformata. | publisher=Holmiae. (Laurentii Salvii). | year=1758| page=| quote = }}</ref> Danh pháp [[Latin]] của chi là ''Pavo''. Trong tiếng Anglo-Saxon, từ ''pawe'' (danh từ "peacock" phát sinh từ đây) được tin là [[từ tượng thanh]] về nguồn gốc của loài và dựa trên tiếng kêu thông thường của loài chim này. Danh pháp loài ''cristatus'' dựa trên chiếc mào chim.<ref>{{chú thích sách |title=The Pheasants of the World: Biology and Natural History |last=Johnsgard |first=P.A. |authorlink= |year=1999 |publisher=Smithsonian Institution Press |location=Washington, DC |isbn=1-56098-839-8 |page=374 |pages= |url= |accessdate=}}</ref>
 
Việc sử dụng sớm nhất tên loài chim này trong văn bản tiếng Anh từ khoảng năm 1300. Những biến thể chính tả gồm có pecok, pekok, pecokk, peacocke, peocock, pyckock, poucock, pocok, pokok, pokokke, và poocok giữa những tên khác. Cách viết hiện nay được xuất bản vào những năm cuối thế kỷ 17. [[Geoffrey Chaucer|Chaucer]] (1343–1400) sử dụng từ ngữ này để chỉ một người kiêu kỳ và phô trương trong văn ví von của ông "''kiêu kì như pekok''" trong tác phẩm [[Troilus và Criseyde]] (quyển I, dòng 210).<ref>{{chú thích sách|url=http://www.archive.org/stream/etymologicaldict00weekuoft#page/528/mode/1up/|author=Weekley, E|title=An etymological dictionary of modern English|publisher=John Murray, London|year=1921|isbn=1-176-40695-7}}</ref>
 
Trong tiếng Hy Lạp peacock được gọi là ''taos'' và được thuật lại trong tiếng Ba Tư "tavus" (như trong ''Takht-i-Tâvus'' trong tác phẩm [[Peacock Throne]]<ref name=lal>{{chú thích sách|title=Peacock in Indian art, thought and literature|author=Lal, Krishna|publisher= Abhinav Publications| year=2007| isbn=81-7017-429-5 |url=http://books.google.com/books?id=wuotb7YyrigC |pages=11,26,139}}</ref>). Trong tiếng Do Thái, từ ''tuki'' (số nhiều ''tukkiyim'') được cho là có nguồn gốc từ tiếng Tamil ''tokei'' nhưng đôi khi cũng có dính dáng đến tiếng Ai Cập, từ ''tekh''.<ref>{{chú thích sách|page=155|year=1884| publisher=Chatto and Windus, London|author=Burton, R F|title=The book of the sword|url=http://www.archive.org/stream/booksword00unkngoog#page/n197/mode/1up/|isbn=0-486-25434-8}}</ref><ref>{{chú thích sách|page=263|title=Cultivated plants and domesticated animals in their migration from Asia to Europe: historico-linguistic studies Volume 7 of Amsterdam studies in the theory and history of linguistic science Amsterdam studies in the theory and history of linguistic science. Series I, Amsterdam classics in linguistics,1800-1925|author=Hehn, Victor; James P. Mallory|publisher=John Benjamins Publishing Company|year=1976 | isbn=90-272-0871-9}}</ref>
 
==Mô tả==
[[Tập tin:Pavo Real Venezolano.jpg|200px|thumb|left|Cận cảnh cổ công trống]]
[[Tập tin:PeackockFront.jpg|thumb|right|250px]]
===Kích thước và cân nặng===
 
Hàng 56 ⟶ 55:
 
===Đột biến và lai ghép===
[[Tập tin:Albino peacock.jpg|thumb|300px250px|1 con công trắng được sinh ra nhờ chọn lọc nhân giống. Đột biến này thường bị nhầm lẫn với bệnh [[bạch tạng]].]]
 
Có một số dạng đột biến màu sắc của công Ấn Độ trống. Hiện tượng này rất hiếm xảy ra trong tự nhiên, nhưng [[chọn giống]] đã làm cho chúng phổ biến trong điều kiện nuôi nhốt. Dạng đột biến vai đen hoặc đột biến sơn mài ban đầu được xem là một phân loài ''P. c. nigripennis'' (hoặc thậm chí là 1 loài),<ref>{{cite journal|author=Sclater PL|year= 1860|title=On the black-shouldered peafowl of Latham (''Pavo nigripennis'')|journal= [[Proc. Zool. Soc. London]]|pages=221–222|url=http://www.archive.org/stream/lietuvostsrmoksl60liet#page/221/mode/1up}}</ref> và là chủ đề được quan tâm trong thời đại của Darwin. Tuy nhiên đó chỉ là một trường hợp biến thể di truyền trong quần thể. Trong dạng đột biến này, công trống trưởng thành chứa hắc tố với đôi cánh đen.<ref name=fbi2>{{chú thích sách|pages=282–284|url=http://www.archive.org/stream/BakerFbiBirds5/BakerFBI5#page/n304/mode/1up/|title= The Fauna of British India, Including Ceylon and Burma. Birds. Volume 5|edition=2|author=Baker, ECS|year=1928|publisher=Taylor and Francis, London}}</ref><ref>{{cite journal|title=Peafowl|author=Seth-Smith, D| journal=Avicultural Magazine|year=1940| volume=5| pages=205–206}}</ref> Chim non với đột biến ''nigripennis'' có màu trắng kem với đôi cánh có ngọn hung hung màu da bò. Gen sản xuất hắc tố ở chim trống và mái tạo ra một sự pha loãng màu sắc với những mảng nâu và trắng kem. Những biến dị khác bao gồm các hình pha màu và trắng, tất cả đều là kết quả biến dị [[alen]] tại vị trí [[locus (di truyền học)|locus]] cụ thể.<ref>{{cite journal|title= Plumage Color Inheritance of the Indian Blue Peafowl (''Pavo Cristatus''): Blue, Black-Shouldered, Cameo, and Oaten|journal= Journal of Heredity |year=1991|doi= 10.1093/jhered/82.1.64|volume=82|pages=64–68|author= Somes, RG Jr. and R. E. Burger}}</ref><ref>{{cite journal|title= Inheritance of the White and Pied Plumage Color Patterns in the Indian Peafowl (''Pavo cristatus'')|journal=J. Hered.|volume=84|issue=1|pages=57–62|year=1993|author=Somes, RG, Jr. and Burger, R. E. |url=http://jhered.oxfordjournals.org/content/84/1/57.abstract}}</ref>
Hàng 69 ⟶ 68:
 
==Tập tính và hành vi==
[[Tập tin:Unterwegs im Wildpark Alte Fasanerie Pfauenhenne mit Küken Juni 2012.JPG|thumb|left|200px170px|Công mái và công non]]
[[Tập tin:Peacock on a roof J1.jpg|200px170px|thumb|right|Chim xếp đuôi đậu trên mái nhà]]
[[Tập tin:3 Küken Blauer Pfau Alte Fasanerie Klein-Auheim Juni 2012..JPG|200px170px|thumb|Chim non]]
 
Chim công trống được biết đến với màn phô bày xòe đuôi, mặc dù lông thực sự mọc lên từ phía lưng, được xem như một cái đuôi. "Chuỗi đốm hình mắt" trên thực tế tô điểm mặt trên từng chiếc lông đuôi thon dài to lớn. Đuôi công mái nâu và ngắn. Màu sắc không là kết quả của sắc tố xanh lục hoặc xanh lam mà từ những vi cấu trúc của lông và hiện tượng quang dẫn.<ref>{{cite journal | last = Blau | first = S.K. | title = Light as a Feather: Structural Elements Give Peacock Plumes Their Color| journal = Physics Today | volume = 57 | issue = 1 | pages = 18–20 | year= 2004 | doi = 10.1063/1.1650059 }}</ref> Lông dài đính chuỗi (và cựa cổ chân) ở chim trống chỉ phát triển sau năm tuổi thứ hai. Chuỗi đốm phát triển đầy đủ được tìm thấy khi chim lớn hơn 4 năm tuổi. Miền Bắc Ấn Độ, chuỗi bắt đầu phát triển mỗi tháng 2 và thay lông vào cuối tháng 8.<ref>{{cite journal|doi=10.2307/1366352|url=http://sora.unm.edu/sites/default/files/journals/condor/v076n03/p0344-p0346.pdf |title=Ecological Studies of the Plumes of the Peacock (''Pavo cristatus'')|author=Sharma, IK|journal=The Condor| volume=76| issue=3| year=1974| pages=344–346|jstor=1366352 }}</ref> Thay lông bay có thể trải ra suốt năm.<ref>{{cite journal|url=http://hdl.handle.net/2246/3909|title=Notes on some pheasants from southwestern Asia, with remarks on molt|journal= American Museum novitates |volume= 1518|author= Marien, Daniel|year=1951|pages=1–25}}</ref>
Hàng 82 ⟶ 81:
 
===Chọn lọc giới tính===
[[Tập tin:Many eyeballsPeackockFront.jpg|left|thumb|300px250px|1 con công trống (''Pavo cristatus'') xòe đuôi rực rỡ và ấn tượng]]
[[Tập tin:FWB Boat Marina bird01.jpg|250px|thumb|left|Công mái kém sắc]]
[[Tập tin:PeacockInTheWoods.jpg|thumb|right|200px|[[Abbott Handerson Thayer|Thayer]] và tác phẩm "Chim công trong rừng" (1907) gợi ý rằng chức năng của chiếc đuôi lộng lẫy được [[ngụy trang]]]]
[[Tập tin:FWBPeacock Boat Marina bird01Flying.jpg|300px|thumb|left250px|CôngChim công máixòe kémcánh sắcbay]]
[[Tập tin:Peacock Flying.jpg|thumb|300px|Chim công xòe cánh bay]]
[[Tập tin:Pavo cristatus -Castellar Zoo, Castellar de la Frontera, Spain-8a.png|300px|thumb|Chim công xòe đuôi]]
 
Màu sắc rực rỡ của công trống và sự tương phản với công mái màu nhạt hơn là một câu đố đành cho giới nghiên cứu. [[Charles Darwin]] viết cho [[Asa Gray]] rằng ''"nhìn vào một chiếc lông của đuôi chim công, bất cứ khi nào tôi nhìn vào nó, làm cho tôi bị bệnh!"'' cũng như ông không thấy một lợi thế hữu hiệu của chiếc đuôi xòe đó dường như chỉ là một gánh nặng. Darwin đã phát triển một nguyên tắc thứ hai của [[chọn lọc giới tính]] để giải quyết các vấn đề, mặc dù trong xu hướng trí tuệ thời điểm đó của Anh thời Victoria, lý thuyết này đã không đạt được sự chú ý rộng rãi.<ref>{{chú thích sách|last=Miller|first=Geoffrey|title=The mating mind: how sexual choice shaped the evolution of human nature|year=2000|publisher=Anchor Books|location=New York|isbn=0-385-49517-X|edition=1st Anchor Books ed.}}</ref>
Hàng 110 ⟶ 107:
[[Tập tin:Peacock Wooing Peahen.jpg|thumb|left|250px|Công trống tán tỉnh công mái]]
[[Tập tin:Pavo cristatus MWNH 1075.JPG|thumb|200px|Trứng chim, sưu tập tại [[Viện bảo tàng Wiesbaden]]]]
[[Tập tin:White peacock Keukenhof.JPG|thumb|right|300px|Công trắng xòe đuôi tán tỉnh công mái]]
[[Tập tin:Zärtlichkeiten zwischen Pfauen.JPG|thumb|left|250px|Trống và mái đang chụm đầu vào nhau]]
[[Tập tin:PeackockSide.jpg|thumb|right|300px250px|Chim trống xòe đuôi nhìn nghiêng]]
 
Chim công trống có tính [[đa thê]], mùa sinh sản được trải ra nhưng dường như phụ thuộc vào những cơn mưa. Chim công thường [[động dục]] từ 2-3 tuổi.<ref>{{chú thích web|title=Common (Indian) Peafowl|url=http://www.rollinghillswildlife.com/animals/p/peafowl/|publisher=Rolling Hills Wildlife Adventure|accessdate=ngày 26 tháng 12 năm 2012}}</ref> Một số con trống có thể tụ tập tại theo địa điểm [[mô hình Lek]] và những con trống thường có liên quan chặt chẽ.<ref>{{cite journal|doi=10.1038/43651|url=http://www.nbb.cornell.edu/neurobio/BioNB427/READINGS/Sherman1999.pdf|title=Peacocks lek with relatives even in the absence of social and environmental cues|journal=Nature |volume=401|issue=6749| pages=155–157 |author=Petrie M, Krupa A, Burke T. |year=1999}}</ref> Công trống tại điểm xuất hiện Lek để duy trì vùng lãnh thổ nhỏ cạnh nhau, cho phép công mái tiến vào và không cố bảo vệ hậu cung. Công mái không xuất hiện ưu ái công trống cụ thể.<ref>{{Cite journal| doi = 10.1016/S0003-3472(84)80159-1| volume = 32| issue = 3| pages = 830–835| last = Rands| first = M.R.M.| coauthors = M.W. Ridley, A.D. Lelliott| title = The social organization of feral peafowl| journal = Animal Behaviour| date = August 1984}}</ref> Chim trống thể hiển sự tán tỉnh bằng cách xòe lông đuôi thành một cánh quạt hình cung. Đôi cánh nửa mở, rũ xuống và vỗ những sợi lông dài theo kỳ phát ra âm thanh rền nhẹ. Con trống đối mặt với con mái ban đầu, oai vệ, nhảy đựng lên xung quanh và đôi khi xoay vòng quanh múa đuôi.<ref name=hbk>{{chú thích sách|author=Ali, S and Ripley, S D | title=Handbook of the birds of India and Pakistan|edition=2|publisher=Oxford University Press|volume= 2|year= 1980 |pages =123–126|isbn=0-19-562063-1 }}</ref> Chim trống cũng có thể làm lạnh thức ăn để mời một con mái theo kiểu [[tán tỉnh ăn uống]].<ref>{{cite journal|url=http://sora.unm.edu/sites/default/files/journals/auk/v088n03/p0543-p0559.pdf |title=Courtship Feeding in Gallinaceous Birds|author=Stokes, AW and Williams, H. Warrington | journal=The Auk| volume=88| issue=3| year=1971|pages=543–559 }}</ref> Chim trống thể hiển ngay cả trong trường hợp không có con mái. Khi một con trống đang xòe đuôi, công mái không cho thấy có bất cứ chú ý nào và thường tiếp tục kiếm ăn.<ref name=injar/> Mùa cao điểm ở miền nam Ấn Độ là tháng 4 đến tháng 5, tháng 1 đến tháng 3 ở Sri Lanka và tháng 6 ở miền bắc Ấn Độ. Chiếc tổ là một chỗ đào bới nông trên mặt đất lót bằng lá cây, que củi và các mảnh vụn khác. Tổ chim đôi khi được đặt trên các tòa nhà<ref>{{cite journal|author= Vyas, R |year=1994| title=Unusual breeding site of Indian Peafowl|journal=[[Newsletter for Birdwatchers]] | volume=34|issue=6|page=139.|url=http://www.archive.org/stream/NLBW34_6#page/n21/mode/1up}}</ref> và trước đó đã từng ghi nhận chim công sử dụng tổ bỏ hoang của [[kền kền Bengal]]. Ổ trứng gồm 4-8 quả màu màu trắng vàng được chim mái ủ. Trứng mất khoảng 28 ngày để nở. Chim non rời khỏi tổ và theo chim mẹ sau khi nở.<ref name=whistler/> Chim non tơ đôi khi có thể leo lên lưng chim mái và chim cái có thể mang chúng khi bay tới nhánh cây an toàn.<ref>{{cite journal|author=Singh, H |year=1964| title= Peahens flying up with young|journal=[[Newsletter for Birdwatchers]] | volume=4|issue=1|page=14| url=http://www.archive.org/stream/NLBW4#page/n14/mode/1up}}</ref> Một trường hợp khác thường mà công trống ấp một ổ trứng cũng được báo cáo.<ref name=hbk>{{chú thích sách|author=Ali, S and Ripley, S D | title=Handbook of the birds of India and Pakistan|edition=2|publisher=Oxford University Press|volume= 2|year= 1980 |pages =123–126|isbn=0-19-562063-1 }}</ref><ref>{{cite journal|author= Shivrajkumar, YS |year=1957| title=An incubating Peacock (''Pavo cristatus'' Linn.)| journal= J. Bombay Nat. Hist. Soc.| volume=54| issue=2|page=464}}</ref>