Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Thiện Khiêm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:21.2790000
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
{{Viên chức
| tên= Trần'''TRẦN ThiệnTHIỆN KhiêmKHIÊM
| hình=
| ngày sinh = {{ngày sinh và tuổi|1925|12|15}} (91 tuổi)
| chức vụ= [[Nguyên thủ Việt Nam Cộng hòa]]
| bắtnơi đầusinh= '''[[27Châu tháng 8Thành]], năm[[Long An]]<br/>[[1964Việt Nam]]
| ngày mất=
| kết thúc= [[8 tháng 9]] năm [[1964]]
| nơi mất=
| tiền nhiệm= [[Nguyễn Khánh]]
| chứcphục vụ= '''[[NguyênHình: thủFlag of South Vietnam.svg|40px]] [[Việt Nam Cộng hòa]]
| kế nhiệm= [[Dương Văn Minh]]
| địa hạtthuộc= '''[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|36px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng Hòahòa|Quân lực VNCH]]
| năm phục vụ= 1945'''[[1946]]-1965[[1975]]
| chức vụ 2= [[Thủ tướng Việt Nam#Danh sách#Việt Nam Cộng hòa|Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa]]
| cấp bậc= '''[[Hình: US-O10 insignia.svg|45px64px]] [[Đại tướng]]
| bắt đầu 2= [[tháng chín|tháng 9]] năm [[1969]]
| đơn vị= '''[[Hình: QD I VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Đệ nhị Quân khu]]<ref> Đệ nhị Quân khu là tiền thân của Quân đoàn I và Quân khu 1 sau này. Tướng [[Trần Thiện Khiêm]] có 2 lần tùng sự tại Bộ Tư lệnh Đệ nhị Quân khu:<br/>-Lần thứ nhất: Thiếu tá Trưởng Phòng 3 (1954).<br/>-Lần thứ 2: Thiếu tá Tham mưu trưởng (1954-1955).</ref><br/>[[Hình: ARVN Joint General Staff Insignia.svg|18px]] [[Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Bộ Tổng Tham mưu]]<ref> Sáu lần tùng sự tại Bộ Tổng Tham mưu:<br/>-Lần thứ nhất: Trung tá Tham mưu phó Tiếp Vận (1955-1957).<br/>-Lần thứ hai: Đại tá Tham mưu trưởng.<br/>-Lần thứ ba: Thiếu tướng Tham mưu trưởng Liên quân (1962-1963).<br/>-Lần thứ tư: Thiếu tướng Quyền Tổng Tham mưu trưởng (1963).<br/>-Lần thứ năm: Thiếu tướng Tham mưu trưởng Liên quân (1963).<br/>-Lần thứ sáu: Trung tướng Tổng Tư lệnh Quân lực (tức là Tổng Tham mưu trưởng (1964).</ref> <br/>[[Hình: ARVN 7th Division SSI.svg|20px]] [[Sư đoàn 7 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 4 Dã chiến]]<br/>-[[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]]<br/>[[Hình: QD III VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III và QK 3]]<br/>[[Hình: Flag of the Minister of National Defense of the Republic of Vietnam.svg|20px]] [[Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa|Bộ Quốc phòng]]<ref> Hai lần tùng sự tại Bộ Quốc phòng:<br/>-Lần thứ Nhất: Tổng trưởng trong Nội các Thủ tướng Nguyễn Khánh (1964).<br/>-Lần thứ hai: Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (1972).</ref>
| kết thúc 2= [[14 tháng 4]] năm [[1975]]
| chỉ huy= '''[[Hình: Flag of Colonial Annam.svg|26px]] [[Liên bang Đông Dương|QĐ Thuộc địa Pháp]]<br/>[[Hình: Flag of France.svg|26px]] [[Quân đội Pháp|QĐ Liên hiệp Pháp]]<br/>[[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|26px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br/>[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|26px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
| tiền nhiệm 2= [[Trần Văn Hương]]
| tham chiến= '''-[[Chiến tranh Đông Dương]]<br/>-[[Chiến tranh Việt Nam]]<br/>-[[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960]]<br/>-[[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963]]<br/>-[[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1964]]
| kế nhiệm 2= [[Nguyễn Bá Cẩn]]
| công việc khác= '''[[Hình: Flag of South Vietnam.svg|20px]][[Hình: Flag of the United States.svg|20px]] [[Đại sứ|Đại sứ tại Hoa Kỳ]]<br/>[[Hình: Flag of South Vietnam.svg|20px]][[Hình: Flag of the Republic of China.svg|20px]] [[Đại sứ|Đại sứ tại Đài Loan]]<br/>-[[Việt Nam Cộng hòa|Tổng trưởng Nội vụ]]<br/>-[[Trần Văn Hương|Phó Thủ tướng VNCH]]<ref> Phó Thủ tướng trong Nội các Thủ tướng Trần Văn Hương.</ref><br/>-[[Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa|Thủ tướng VNCH]]
| địa hạt 2= [[Việt Nam Cộng Hòa]]
| chức vụ 3= [[Bộ trưởng]] [[Bộ Quốc phòng]] [[Việt Nam Cộng Hòa]]
| bắt đầu 3= [[1964]]
| kết thúc 3= [[1975]]
| tiền nhiệm 3=
| kế nhiệm 3=
| địa hạt 3= [[Việt Nam Cộng Hòa]]
| ngày sinh = {{ngày sinh và tuổi|1925|12|15}}
| nơi sinh= [[Châu Thành, Long An]]
| nghề nghiệp= [[Quân nhân]]
| dân tộc= [[Người Việt]]
| vợ= Đinh Thuỳ Yến
| thuộc= [[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1945-1965
| cấp bậc= [[Hình: US-O10 insignia.svg|45px]] [[Đại tướng]]
| đơn vị= Sư đoàn 7 Bộ binh<br/>Quân đoàn II và III<br/>Bộ Tổng tham mưu<br/>Bộ Quốc phòng
| tham chiến= [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960]]<br>[[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963]]<br>[[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1964]]
| chỉ huy= [[Hình: Flag of Colonial Annam.svg|22px]] [[Liên bang Đông Dương|Đông Dương thuộc Pháp]]<br/>[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]] [[Việt Nam Cộng hòa]]
}}
 
'''Trần Thiện Khiêm''' ([[chữ Hán]]: 陳善謙; sinh 1925), nguyên là một trongtướng 5lĩnh quânBộ nhânbinh thụcủa phong[[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Đại tướng]]. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân Viễn Đông do [[Quân lựcđội Thuộc địa Pháp mở ra tại Cao nguyên Trung phần Việt Nam. CộngMặc hòa]]dù chuyên môn quân sự của ông là Bộ binh, nhưng khi còn là sĩ quan trung cấp, ông ít phải chỉ huy đơn vị tác chiến mà được cử giữ những chức vụ liên quan đến lãnh vực Tham mưu. Sau lên đến sĩ quan cao cấp, ông được cử chỉ huy đơn vị cấp Sư đoàn một thời gian ngắn. Ông từng là tướng lĩnh giữ vai trò quan trọng trong các cuộc đảoĐảo chính quânQuân sự tại Việt Nam Cộng hòa trong những năm 1963-1964. Sau đó ông được đảm trách những chức vụ cao trong Quân lực như: Tư lệnh Quân đoàn, Tham mưu trưởng rồi Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu... Ông là một trong số ít sĩ quan được thăng cấp tướng ở thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa (Thiếu tướng năm 1962). Ông cũng là một chính khách và là người từng giữ chức vụ đứng đầu Bộ Quốc phòng và Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa trong thời gian lâu nhất: 6 năm.
 
==Tiểu sử và Binh nghiệp==
==Thân thế==
Ông sinh ngày [[15 tháng 12]] năm [[1925]] tại [[Châu Thành]], [[Long An]], miền Nam Việt Nam, trong một gia đình đại điền chủ giàu có. Do điều kiện gia đình khá giả, nên ông có một nềntrình độ học vấn căn bản. tốtÔng được cho lên Sài Gòn học từ cấp Tiểu học đến cấp Trung học ở những trường Pháp danh tiếng. Năm 1944, đãông tốt nghiệp trungTrung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II).
 
Năm 1945, Cách mạng tháng 8 diễn ra ở miền Nam, ông tham gia phong trào [[Việt Minh]]. Khi Pháp tái chiếm [[Nam Bộ Việt Nam|Nam BộKỳ]], ông cùng các bạn hữu rút vào chiếnChiến khu 8, chiến đấu dưới quyền khuKhu trưởng [[Trần Văn Trà]] một thời gian ngắn, sau đó lại trở về thành.
 
===Quân quanđội ngườiThuộc Việtđịa trong QuânLiên độihiệp Pháp===
NămGiữa năm 1946, ông tình nguyên nhập ngũ vào Quân đội Thuộc địa Pháp. Do có trình độ Tú tài, ông được cho theo học khoákhóa 1 TrườngNguyễn Văn Thinh tại trường Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt, (cònkhai gọigiảng ngày khoá1 Nguyễntháng Văn7 Thinh).năm 1946 (Thời gian theo học tại đây, ông có quan hệ thân tình với một số học viên trẻ khác như [[Nguyễn Khánh]], [[Lâm Văn Phát]] và [[Trần Đình Lan).<ref> '''Trần Đình Lan''', sinh năm 1923, tốt nghiệp Võ bị Liên quân Viễn Đông K1. Trước ngày đảo chính Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]] 1 tháng 11 năm 1963, ông là Trung tá Chỉ huy phó Lực lượng Đặc biệt do Đại tá [[Lê Quang Tung]] làm Chỉ huy trưởng. Sau ngày đảo chính, ông được thăng cấp Đại tá và vẫn là Chỉ huy phó của Binh chủng Lực lượng Đặc biệt. Năm 1965 ông được cho giải ngũ.</ref> Ngày 1 tháng 7 năm 1947, mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Chuẩn úy]]. Ra trường ông là sĩ quan tập sự trong đơn vị Vệ binh Nam phần của Quân đội Thuộc địa Pháp. Giữa năm 1948, ông được chuyến biên chế sang Quân đội Liên hiệp Pháp. Tháng 8 cùng năm, ông được thăng cấp [[Thiếu úy]] giữ chức vụ Chỉ huy phó Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 3 Việt Nam.
 
==Phục vụ =Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Giữa năm 1947, ông tốt nghiệp với cấp bậc [[Chuẩn úy]] và tiếp tục trong Quân đội Liên hiệp Pháp tại các đơn vị người bản xứ. Tháng 7 năm 1948, ông là sĩ quan tập sự trong lực lượng Vệ binh Nam Phần, phục vụ Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 3 Việt Nam và đầu tháng 8 ông được thăng cấp [[Thiếu úy]].
NămCuối năm 1950, ông được chuyển ngạch sang Quân đội Quốc gia Việt Nam và được thăng cấp [[Trung úy]], được điều làm chỉ huy một đơnĐại vịđội Việt Nam đồn trú tại Mông Thọ, [[Rạch Giá]]. NămGiữa năm 1952, sau khi Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu, ông được thăng cấp [[Đại úy]], điềuchuyển điđến Tiểuphân khu [[HưngHải Yên]]Dương làm Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 đồn trú tại Ninh Giang. Tại đây ông kết thân với 2 sĩ quan người Việt là Trung úy [[Nguyễn Văn Thiệu]] và Trung úy [[Cao Văn Viên]]. Bộ 3 này về sau là những người có thế lực nhất trong nền [[Đệ nhị Cộng hòa]].
 
Tháng 98 năm 1953, ôngbàn đượcgiao chức vụ Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 lại cho Đại úy Vương Văn Đông. ngay sau đó, ông chuyển sangđi phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 3 đồn trú tại Ninh Bình do Thiếu tá [[Phạm Văn Đổng|Phạm Văn Đỗng]] làm Chỉ huy trưởng. ThángNgày 20 tháng 7 năm 1954, ký kết Hiệp định Genève. Ông cùng đơn vị di chuyển vào Nam. Hạ tuần tháng 7, ông được cử làm Trưởng phòng 3 Đệ nhị Quân khu, đến. cuốiCuối năm, thìông được thăng cấp [[Thiếu tá]], giữ chức vụ Tham mưu trưởng Đệ nhị Quân khu thay thế Thiếu tá [[Nguyễn Văn Thiệu]].<ref> Thiếu tá [[Nguyễn Văn Thiệu]] chuyển ra miền Trung được cử làm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Ninh Thuận.</ref> Tháng 8 năm 1955, ông được thăng cấp [[Trung tá]] giữ chức vụ Tham mưu Phóphó Tiếp vận tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việtthay Namthế Trung tá [[Đặng Văn Quang]].
==Phục vụ Quân đội Quốc gia==
Năm 1950, ông được chuyển ngạch sang Quân đội Quốc gia Việt Nam và được thăng cấp [[Trung úy]], được điều làm chỉ huy một đơn vị đồn trú tại Mông Thọ, [[Rạch Giá]]. Năm 1952, thăng [[Đại úy]], điều đi Tiểu khu [[Hưng Yên]] làm Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 đồn trú tại Ninh Giang. Tại đây ông kết thân với 2 sĩ quan người Việt là Trung úy [[Nguyễn Văn Thiệu]] và Trung úy [[Cao Văn Viên]]. Bộ 3 này về sau là những người có thế lực nhất trong nền [[Đệ nhị Cộng hòa]].
 
{{Nguyên===Quân thủđội Việt Nam Cộng hòa}}===
Tháng 9 năm 1953, ông được chuyển sang phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 3 đồn trú tại Ninh Bình do Thiếu tá [[Phạm Văn Đổng]] làm Chỉ huy trưởng. Tháng 7 năm 1954, ông làm Trưởng phòng 3 Đệ nhị Quân khu, đến cuối năm thì được thăng cấp [[Thiếu tá]], Tham mưu trưởng Đệ nhị Quân khu. Tháng 8 năm 1955, ông được thăng [[Trung tá]] giữ chức vụ Tham mưu Phó Tiếp vận Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam.
DoCuối tháng công10 ủngnăm hộ1955, Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] tổ chức cuộc "Trưng cầu Dân ý" với mục đích phế truất Quốc trưởng [[Bảo Đại]], ông là một trong số sĩ quan nhiệt tình ủng hộ Thủ tướng Diệm. Do có công trong sự kiện này, nên tháng 8 năm 1957 ông được Thủ tướng thăng cấp [[Đại tá]], giữđược chứccử Xử lý thường vụ chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Sau đó ông được cử đi tudu nghiệphọc khóalớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, [[Hoa Kỳ]].
 
SauGiữa khitháng về nước3 năm 1958 mãn khóa học ở Hoa Kỳ về nước, ông được cử làm Tư lệnh [[Sư đoàn 7 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 4 Dã chiến số 4]]<ref> (sauĐầu đótháng được12 năm 1958, Sư đoàn Dã chiến số 4 cải danh lần cuối thành Sư đoàn 7 Bộ binh).</ref> Ngày 30 tháng 3 năm 1959, bàn giao Sư đoàn 7 Bộ binh lại cho Trung tá [[Huỳnh Văn Cao]]. Sau đó ông được chuyển về tùng sự ở Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 2 năm 1960, đượcông chuyển sangvề làmmiền Tây Nam phần giữ chức vụ Tư lệnh [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]] kiêm Tư lệnh Quân khu 45, phụ trách vùng [[đồngĐồng bằng sông Cửu Long]] thay thế Đại tá Nguyễn Văn Y được chuyển về Trung ương.
==Thăng tiến thời Đệ nhất Cộng hòa==
Do có công ủng hộ Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] phế truất Quốc trưởng [[Bảo Đại]], tháng 8 năm 1957 ông được thăng cấp [[Đại tá]] giữ chức Xử lý thường vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Sau đó ông được cử đi tu nghiệp khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, [[Hoa Kỳ]].
 
Khi [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|cuộcCuộc đảo chính quân sự ngày 11 tháng 11 1960]] nổ ra, ông chỉ huy Sư đoàn 21 Bộ binh kéo về Sài Gòn để giải vây cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, chống lại nhóm sĩ quan cầm đầu là Đai tá [[Nguyễn Chánh Thi]] và Trung tá Vương Văn Đông. Do hành động giải vây trên, ông rất được Tổng thống Diệm tín nhiệm. ThángĐầu tháng 12 năm 1962, bàn giao Sư đoàn 21 Bộ binh lại cho Đại tá [[Bùi Hữu Nhơn]] để về tùng sự tại Bộ Tổng Tham mưu. Ngày 6 tháng 12, ông được thăng cấp [[Thiếu tướng]]. Mười ngày sau ông được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân, thay cho người tiền nhiệm là Thiếu tướng [[Nguyễn Khánh]]<ref> vừaThiếu đượctướng điều[[Nguyễn vàoKhánh]] chuyển ra Cao nguyên giữ chức vụ Tư lệnh [[Quân đoàn II (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn II và Vùng 2 Chiến thuật]].</ref>
Sau khi về nước năm 1958, ông được cử làm Tư lệnh [[Sư đoàn 7 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 4 Dã chiến]] (sau đó được cải danh thành Sư đoàn 7 Bộ binh). Tháng 2 năm 1960, được chuyển sang làm Tư lệnh [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]] kiêm Tư lệnh Quân khu 4, phụ trách vùng [[đồng bằng sông Cửu Long]].
 
Giữa năm 1963, Đại tướng Tổng tham mưu trưởng [[Lê Văn Tỵ]] sang Hoa Kỳ chữa bệnh. Ngày 27 tháng 7 cùng năm, bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng lại cho Thiếu tướng [[Lê Văn Nghiêm]]. Sau đó ông được chỉ định Xử lý Thường vụ chức vụ Tổng tham mưu trưởng tạm thời thay tướng Tỵ. Hơn một tháng sau, Tổng thống Diệm chính thức bổ nhiệm Trung tướng [[Trần Văn Đôn]] làm quyền Tổng Tham mưu trưởng thay ông, đồng thời tái bổ nhiệm ông trở lại với chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân thay thế tướng Nghiêm.
Khi [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|cuộc đảo chính quân sự 1960]] nổ ra, ông chỉ huy Sư đoàn kéo về Sài Gòn để giải vây cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Do hành động giải vây trên, ông rất được Tổng thống Diệm tín nhiệm. Tháng 12, ông được thăng cấp [[Thiếu tướng]] và giữ chức Tham mưu trưởng Liên quân, thay cho người tiền nhiệm là tướng Nguyễn Khánh vừa được điều vào chức vụ Tư lệnh [[Quân đoàn II (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn II]].
 
===Mưu sĩ của các cuộc đảo chính===
Giữa năm 1963, Tổng tham mưu trưởng Đại tướng [[Lê Văn Tỵ]] sang Hoa Kỳ chữa bệnh. Ông được chỉ định kiêm Xử lý thường vụ Tổng tham mưu trưởng cho đến tháng 8 thì Trung tướng [[Trần Văn Đôn]] mới được chỉ định làm quyền Tổng tham mưu trưởng.
Tuy vậy, tướng Khiêm lại là một trong những tướng lĩnh chủ chốt tham gia [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|cuộcCuộc Đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963]] lật đổ Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]]. Với cương vị Tham mưu trưởng Liên quân, tướng Khiêm được cho là có những động thái tích cực để vạch kế hoạch và điều động các đơn vị tham gia đảo chính vào Sài Gòn cũng như cách ly các đơn vị trung thành với tổngTổng thống Diệm. Sau cuộc đảo chính, ngày 2 tháng 11 ông được thăng cấp [[Trung tướng]] kiêm chức vụ Ủy viên Quân sự trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng do Trung tướng [[Dương Văn Minh]] làm Chủ tịch. Ngày 17 tháng 12, với tư cách là Ủy viên Quân sự, ông cùng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa do Đại sứ [[Đại sứ|Phạm Đăng Lâm]] làm Trưởng đoàn, sang Seoul tham dự lễ nhậm chức Tổng thống Đại Hàn của Trung tướng [[Park Chung Hee|Phác Chánh Hy]].<ref> Cùng tháp tùng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa sang Đại Hàn ngày 17 tháng 12 năm 1963 còn có:<br/>-Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Thiệu]], Ủy viên Hội đồng Quân nhân Cách mạng kiêm Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh.<br/>-Thiếu tướng [[Linh Quang Viên]], Tổng Tham mưu phó Đặc trách Tiếp vận Bộ Tổng Tham mưu.</ref>
 
Đầu năm 1964, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến thuật]], kiêm Tổng trấn Sài Gòn thay chothế Trung tướng [[Tôn Thất Đính]]. Tuy nhiên, chỉ một tháng sau, ông cùng với người bạn cũ là tướng [[Nguyễn Khánh]] đã thực hiện cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1964|"chỉnhChỉnh lý"]] chớp nhoáng, cướp quyền của [[Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam, 1963Cộng hòa)|Hội đồng Quân nhân Cách mạng]], đưa tướng Khánh lên nắm quyền tối cao. Để trả công, ông được tướng Khánh giao giữ chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng Tư lệnh Quân lực. Ngày [[11 tháng 8]], ông được thăng cấp [[Đại tướng]] và trở thành người thứ 2 sau tướng [[Lê Văn Tỵ]] thụ phong hàm Đại tướng của [[Việt Nam Cộng hòa]].
==Mưu sĩ của các cuộc đảo chính==
Tuy vậy, tướng Khiêm lại là một trong những tướng lĩnh chủ chốt tham gia [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|cuộc Đảo chính]]. Với cương vị Tham mưu trưởng Liên quân, tướng Khiêm được cho là có những động thái tích cực để vạch kế hoạch và điều động các đơn vị tham gia đảo chính vào Sài Gòn cũng như cách ly các đơn vị trung thành với tổng thống Diệm. Sau cuộc đảo chính, ông được thăng [[Trung tướng]] kiêm chức Ủy viên Quân sự trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng do Trung tướng [[Dương Văn Minh]] làm Chủ tịch.
 
===Thắng làm vuaVua, thua làm đạiĐại sứ===
Đầu năm 1964, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III]], kiêm Tổng trấn Sài Gòn thay cho tướng [[Tôn Thất Đính]]. Tuy nhiên, chỉ một tháng sau, ông cùng với người bạn cũ là tướng [[Nguyễn Khánh]] đã thực hiện cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1964|"chỉnh lý"]] chớp nhoáng, cướp quyền của [[Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam, 1963)|Hội đồng Quân nhân Cách mạng]], đưa tướng Khánh lên nắm quyền tối cao. Để trả công, ông được tướng Khánh giao giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng Tư lệnh Quân lực. Ngày [[11 tháng 8]], ông được thăng cấp [[Đại tướng]] và trở thành người thứ 2 sau tướng [[Lê Văn Tỵ]] thụ phong hàm Đại tướng của [[Việt Nam Cộng hòa]].
Nhằm dung hòa mâu thuẫn giữa các tướng lãnh lãnh đạo, giải pháp "Tam đầu chế" ra đời. Ngày 27 tháng 8 năm 1964, ông được Hội đồng Quân lực (hậu thân của Hội đồng Quân Nhân Cách mạng) gồm 53 thành viên tướng lãnh họp tại Bộ Tổng Tham mưu, bầu vào Ủy ban Lãnh đạo Lâm thời Quốc gia và Quân lực cùng với hai tướng [[Dương Văn Minh]] và Nguyễn Khánh. Tuy nhiên, mâu thuẫn quyền lực đã nẩy sinh với ông bạn cũ Nguyễn Khánh. Sau cuộc binh biến ngày 13 tháng 9 do tướng [[Dương Văn Đức]] phát động, tướng Khánh nghi ngờ có sự hậu thuẫn của ông, nên từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 10, ông bị tướng Khánh buộc phải bàn giao hai chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng và Tổng Tư lệnh Quân lực lại cho tướng Khánh kiêm nhiệm (đây là một động thái thâu tóm quyền lực của tướng Khánh). Ngày 7 tháng 10, ông được cử làm Trưởng phái đoàn công du thăm viếng thiện chí Vương quốc Anh và Liên bang Tây Đức để cám ơn các Quốc gia này đã từng hỗ trợ cho Việt nam Cộng hòa trong công cuộc chống Cộng sản. Ngày 24 tháng 10 cùng năm hết hạn công du, thay vì trở về nước, ông nhận được quyết định của tướng Khánh đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Hoa Kỳ
 
SauGiữa năm 1965, sau khi nhóm các tướng trẻ do tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] và một người bạn cũ của tướng Khiêmông là tướng [[Nguyễn Văn Thiệu]] cầm đầu, đã buộc tướng Khánh phải rời khỏi mọi chức vụ để "đi làm " đạiĐại sứ lưuLưu động", tướngông Khiêmnghĩ đãrằnghythể vọngđược trở về. Tuy nhiên, vào tháng 19-10 năm 1965, nhómhết nhiệm kỳ Đại sứ tại Hoa Kỳ, ông lại nhận được quyết định từ tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] một(đương lầnnhiệm nữaChủ lạitịch đẩyỦy ôngban Hành pháp Trung ương (Thủ tướng) Việt Nam Cộng hòa) tiếp tục đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại [[Đài Loan]] (Trungthực Hoachất đây là một hình thức ông bị đẩy đi lưu vong ở Dânnước Quốcngoài).
Nhằm dung hòa mâu thuẫn giữa các tướng lĩnh, giải pháp "Tam đầu chế" ra đời. Trong một thời gian ngắn, từ [[27 tháng 8]] đến [[8 tháng 9]], ông tham gia [[Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia]] cùng với 2 tướng [[Dương Văn Minh]] và Nguyễn Khánh.
 
===Trở về nắm quyền===
==Thắng làm vua, thua làm đại sứ==
Mãi đến năm 1967, người bạn cũ [[Nguyễn Văn Thiệu]] sau khi đã ngồi chắc vào chiếc ghế Tổng thống, đã dùng nhiều biện pháp để loại trừ vây cánh của tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] (lúc đó đã là Phó tổngTổng thống), tháng 5 năm 1968, ông mới được triệu hồi về nước và được giao chức vụ Tổng trưởng Nội vụ trong chínhChính phủ [[Trần Văn Hương]]. Đầu năm 1969, ông được cử làm Phó Thủ tướng đặc trách bình định. ThángĐến ngày 22 tháng 8 cùng năm, 1969Thủ tướng Trần văn Hương từ chức, ông được Tổng thống Thiệu chỉ định làm Thủ tướng và lập chínhNội các Chính phủ mới. Khi tướng [[Nguyễn Văn Vỹ]] bị cách chức Tổng trưởng Quốc phòng năm 1972, ông được cử kiêm nhiệm luôn chức vụ này cho đến tận tháng 4 năm 1975.
Tuy nhiên, mâu thuẫn quyền lực đã nảy sinh với ông bạn cũ Nguyễn Khánh. Để bảo đảm quyền lực tuyệt đối, tướng Khánh khó mà chấp nhận người bạn đã nhiều lần tổ chức đảo chính và đã đưa mình lên vị trí quyền lực. Cho rằng tướng Khiêm đứng đằng sau cuộc binh biến của tướng [[Dương Văn Đức]] ngày 13 tháng 9 năm 1964, ngày 24 tháng 10 năm 1964, ông bị tướng Khánh tước mọi chức vụ và được "cử" làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại [[Hoa Kỳ]], thực chất là một hình thức đẩy đi lưu vong ở nước ngoài.
 
==1975==
Sau khi nhóm các tướng trẻ do tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] và một người bạn cũ của tướng Khiêm là tướng Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu, đã buộc tướng Khánh phải rời khỏi chức vụ để "làm" đại sứ lưu động, tướng Khiêm đã có hy vọng trở về. Tuy nhiên, tháng 19-1965, nhóm tướng Kỳ một lần nữa lại đẩy ông làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại [[Đài Loan]] (Trung Hoa Dân Quốc).
Tháng 3 năm 1975, sau khi [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đã kiểm soát được hầu hết miền Trung và Cao nguyên, trước áp lực của Hoa Kỳ đòi hỏi phải có một cuộc cải tổ sâu rộng thành phần chính phủ để ổn định nội tình Miền Nam và có đủ sức mạnh để đối thoại với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã yêu cầu ông từ chức để mời Dân biểu [[Nguyễn Bá Cẩn]] Chủ tịch Hạ viện, thành lập chínhChính phủ mới. Ngày 5 tháng 4 năm 1975, ông chính thức từ chức rời khỏi các chức vụ. Ngày 21 tháng 4, đến lượt tổng thống Thiệu cũng từ chức, giao quyền Tổng thống cho phó Tổng thống [[Trần Văn Hương]]. Đêm ngày 24 tháng 4, ông cùng với cựu Tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam sang Đài Loan. Sau đó qua định cư tại Hoa Kỳ.
 
Đêm ngày 25 tháng 4, ông cùng với cựu Tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam sang Đài Loan. Sau đó qua định cư tại Tiểu bang Virginia rồi di chuyển sang Thành phố Houston, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
==Trở về nắm quyền==
Mãi đến năm 1967, [[Nguyễn Văn Thiệu]] sau khi đã ngồi chắc vào chiếc ghế Tổng thống, đã dùng nhiều biện pháp để loại trừ vây cánh của tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] (lúc đó đã là Phó tổng thống), tháng 5 năm 1968, ông mới được triệu hồi về nước và được giao chức vụ Tổng trưởng Nội vụ trong chính phủ [[Trần Văn Hương]]. Đầu năm 1969, ông được cử làm Phó Thủ tướng. Tháng 8 năm 1969, ông được Tổng thống Thiệu chỉ định làm Thủ tướng và lập chính phủ mới. Khi tướng [[Nguyễn Văn Vỹ]] bị cách chức Tổng trưởng Quốc phòng năm 1972, ông kiêm nhiệm luôn chức vụ này cho đến tận tháng 4 năm 1975.
 
*-Những giờ phút cuối cùng của ông tại Việt Nam được cựu điệp viên [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] Frank Snepp ghi lại trong quyển "Decent Interval" như sau:
==Lưu vong lần thứ hai==
Tháng 3 năm 1975, sau khi [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đã kiểm soát được hầu hết miền Trung và Cao nguyên, trước áp lực của Hoa Kỳ đòi hỏi phải có một cuộc cải tổ sâu rộng thành phần chính phủ để ổn định nội tình Miền Nam và có đủ sức mạnh để đối thoại với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã yêu cầu ông từ chức để mời [[Nguyễn Bá Cẩn]] thành lập chính phủ mới. Ngày 5 tháng 4 năm 1975, ông chính thức từ chức rời khỏi chức vụ. Ngày 21 tháng 4, đến lượt tổng thống Thiệu cũng từ chức, giao quyền Tổng thống cho phó Tổng thống [[Trần Văn Hương]]. Đêm ngày 24 tháng 4, ông cùng với cựu Tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam sang Đài Loan. Sau đó qua định cư tại Hoa Kỳ.
 
Những giờ phút cuối cùng của ông tại Việt Nam được cựu điệp viên [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] Frank Snepp ghi lại trong quyển "Decent Interval" như sau:
 
{{cquote|
Hàng 87 ⟶ 68:
}}
 
Sau khi sang Mỹ, ông cùng gia đình định cư tại Virginia, rồi chuyển sang Houston, Texas.
 
==Gia đình==
* Bào huynh:
Ông có 3 người anh trai:
*# Ông Trần Thiện Khởi, cựu(SN 1918 tại Sài Gòn. Nguyên là Tổng giám đốc Quan thuế Việt Nam Cộng hòa).
*# Ông Trần Thiện Phương (SN 1920 tại Sài Gòn, cựutốt nghiệp trường Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu. Nguyên là Đại tá Giám đốc Thương cảng Gài Gòn. Giải ngũ năm 1970).
*# Ông Trần Thiện Ngươn (SN 1923 tại Long An, tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt K12. Sau cùng là Đại tá phục vụ tại Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa).
* Phu nhân: Bà Đinh Thùy Yến (1934-2004), còn gọi là Tư Nết, tên Pháp là Annette, con gái một đại điền chủ vùng Rạch Giá. Về sau bà từng trúng cử Dân biểu Quốc hội Việt Nam Cộng hòa (1959-1963).
 
==Chú thích==
{{thamTham khảo|2}}
 
==Tham khảo==
*{{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=(2011). |title=''Lược sử quânQuân lực Việt Nam Cộng hòa |pages = 104-107|publisher=Hương Quê |isbn=978-0-9852-1820-1}}.
*Phỏng vấn đặc biệt nguyên Thủ tướng Trần Thiện Khiêm: [http://www.youtube.com/watch?v=UvjYfqj15pE&list=TLdSIAlCvWu1Y Phần 1] và [http://www.youtube.com/watch?v=xETGqTcvcow&list=TLJl6M_A2DGGE Phần 2]
*{{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=2011 |title=Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa |pages = 104-107|publisher=Hương Quê |isbn=978-0-9852-1820-1}}
 
==Liên kết==
{{Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa}}
*Phỏng vấn đặc biệt nguyên Thủ tướng Trần Thiện Khiêm: [http://www.youtube.com/watch?v=UvjYfqj15pE&list=TLdSIAlCvWu1Y Phần 1] và [http://www.youtube.com/watch?v=xETGqTcvcow&list=TLJl6M_A2DGGE Phần 2]
{{Nguyên thủ Việt Nam Cộng hòa}}
{{Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa}}
 
{{thời gian sống|1925}}
[[Thể loại:Đại tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Người Long An]]
[[Thể loại:Sinh 1925]]
[[Thể loại:Nhân vật còn sống]]