Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Oa Khoát Đài”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 39:
 
== Sau khi chết ==
Oa Khoát Đài chết năm 1241, làm cho công cuộc chinh phục châu Âu của người Mông Cổ chấm dứt sớm hơn dự kiến. Các tướng lĩnh chỉ huy được biết tin xấu này khi họ đang trên đường tiến tới thành Wien[[Viên]], đã rút lui để về tham dự hội nghị Ikh kurultai tại [[Mông Cổ]], và không bao giờ tiến quân xa như thế về phương tây nữa.
 
Con trai của ông, [[Quý Do]] (1206-1248) cuối cùng đã trở thành người kế vị ông, sau 5 năm nhiếp chính của vợ ông là đại hoàng hậu [[Bột Lạt Cáp Chân]] (Töregene Khatun). Nhưng [[Bạt Đô]] (1205-1255), hãn của hãn quốc Kipchak (hay [[Kim Trướng hãn quốc]]) tại Nga, không bao giờ chấp nhận Quý Do, người đã chết khi trên đường tới đe dọa ông. Điều này diễn ra tới tận năm 1255, khi hãn [[Mông Kha]] (hay Mông Ca, Mongke - con trai của Đà Lôi) lên kế vị, và Bạt Đô cảm thấy đủ an toàn để có thể lại chuẩn bị cho việc xâm lăng châu Âu. Rất may mắn cho người châu Âu là ông này cũng đã chết trước khi kế hoạch của ông có thể được thực hiện. Con trai của ông là hãn [[Sartaq]] cũng có ý định thực hiện điều này, nhưng ông ta cũng đã chết năm 1256. Năm 1258, sau khi em trai của Bạt Đô là [[Biệt Nhi Ca]] (Berke) (?-1266) lên trị vì hãn quốc Kipchak thì do là người theo [[Hồi giáo]] nên ông này ưa thích việc ngăn chặn mọi ý định của người em họ là hãn [[Húc Liệt Ngột]] (Hulagu – con trai Đà Lôi) (1217-1265) trong việc làm tổn hại cho vùng đất thánh của mình thay vì xâm lăng châu Âu. Các nhà sử học đánh dấu sự thoái trào của đế quốc Mông Cổ hợp nhất là sau cái chết của Oa Khoát Đài, mặc dù việc lên ngôi của Mông Kha đã làm ngừng mọi cuộc nội chiến gia đình trong một khoảng thời gian.