Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Phusa12 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Phusa12 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 284:
Trước năm 1981, quân hàm cấp tướng của quân chủng hải quân chưa có tên gọi riêng. Từ năm 1981, quân hàm các cấp tướng trong hải quân mới có tên gọi riêng, theo cách gọi của Liên Xô: Đô đốc (tương đương [[Thượng tướng]]), Phó Đô đốc (tương đương [[Trung tướng]]), Chuẩn Đô đốc (tương đương [[Thiếu tướng]]), được quy định lần đầu tiên trong Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1981. Về phù hiệu và cấp hiệu quân hàm xem bài [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]].
 
Trong lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam chỉ mới có 2 sĩ quan Hải quân lên tới cấp Đô đốc là [[Giáp Văn Cương]] (phong năm 1988) và [[Nguyễn Văn Hiến]] (phong năm 2011). Theo Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam (2014) <ref>[http://laws.dongnai.gov.vn/1991_to_2000/1999/199912/199912210006 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999]</ref> thì Phó Đô đốc tương đương Trung tướng là bậc quân hàm cao nhất của quân nhân giữ chức vụ Tư lệnh và chính ủy Quân chủng Hải quân Việt Nam. Chỉ phong Đô đốc hải quân khi là Thứ trưởng quốc phòng, Phó tổng tham mưu trưởng, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị kiêm nhiệm.
 
==Lãnh đạo qua các thời kỳ==