Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ nghĩa thực dụng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
/* Chú thích *bổ sung thêm định nghĩa
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Chủ nghĩa thực dụng''' (gốc từ tiếng Hy Lạp cổ ''πραγμα'', [[sinh cách]] là ''πραγματος'' — «việc làm, hành động»; [[tiếng Anh]]: ''pragmatism''), têncòn dịchgọi đúng hơn là '''chủ nghĩa hành động''',<ref>{{chú thích web|author=Nguyễn Tấn Hùng|url=http://baodanang.vn/vn/danangcuoituan/23152/index.html|title=Về cách phiên âm và phiên dịch các thuật ngữ - Kỳ 2: Dịch sai tên và nội hàm của khái niệm|date = ngày 25 tháng 7 năm 2009 |accessdate = ngày 9 tháng 7 năm 2010 |publisher=Báo Đà Nẵng}}</ref> là một trường phái [[triết học]] chủ trương rằng một chủ thuyết hay luận đề chỉ đúng khi nào nó đưa tới kết quả tốt đẹp và những chủ thuyết nào không đưa tới kết quả tốt đẹp thì phải nên bị loại bỏ và lợi ích về vật chất đóng vai trò chủ chốt. Theo một trong những người phát triển ra chủ nghĩa này là triết gia [[William James]] thì muốn biết một ý tưởng đúng hay sai thì phải dựa trên kết quả thực nghiệm chứ không phải chỉ dựa trên luận lý viễn vông.
một thuật ngữ thông tục để chỉ lối hành xử dựa trên tình hình thực tế được biết đến, do đó hành động thiết thực được đặt trên lý lẽ có tính lý thuyết. Trong chủ nghĩa thực dụng, chân lý của một lý thuyết được đánh giá bởi thành công thực tế của nó, cho nên hành động thực dụng không gắn liền với nguyên tắc bất biến.
 
Trong triết học, đó là một một trường phái được Charles Sanders Peirce và William James lập ra từ cuối thế kỷ 19 và được John Dewey, George Herbert Mead và [[George Santayana]], tiếp tục triển khai trong thế kỷ 20. Những ý tưởng của Dewey và Mead cũng tạo cơ sở cho trường phái Xã hội học Chicago.<ref>Hans-Joachim Schubert, Harald Wenzel, Hans Joas und Wolfgang Knebel: Pragmatismus zur Einführung, Junius, Hamburg 2010, 10–11</ref> Trường phái này đã có tầm ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống - xã hội [[Hoa Kỳ|Mỹ]] và trở thành học thuyết triết học đặc trưng của Mỹ thời kỳ này. Theo chủ nghĩa thực dụng, những hậu quả thiết thực và ảnh hưởng của một hành động sống hay một sự kiện tự nhiên xác định tầm quan trọng của một tư tưởng. Theo đó kiến ​​thức của con người đối với con người thực dụng có thể sai lầm (fallibilism). Do đó chân lý của một tuyên bố hoặc ý kiến ​​(lòng tin) được xác định do kết quả mong đợi hoặc có thể có của một hành động. Việc thực hành của con người được hiểu như một nền tảng cũng như triết học lý thuyết (đặc biệt trong nhận thức luận và bản thể học), vì nó được giả định rằng, cả kiến ​​thức lý thuyết xuất phát từ việc xử lý thực tế các sự việc và vẫn còn phụ thuộc vào điều này. Trong tư tưởng căn bản triết học tồn tại giữa các vị trí của từng cá nhân thực dụng những khác biệt đáng kể, những điểm tương đồng là cùng dùng những phương pháp thực dụng hơn là những lý thuyết thống nhất. Triết gia [[William James]] cho là, muốn biết một ý tưởng đúng hay sai thì phải dựa trên kết quả thực nghiệm chứ không phải chỉ dựa trên luận lý viễn vông.
 
Chủ nghĩa thực dụng khởi đầu từ cuối thế kỷ 19 với triết gia Mỹ [[Charles Sanders Peirce|Charles Peirce]]. Qua đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa này được phát triển bởi các ông [[William James]], [[John Dewey]], và [[George Santayana]]. Đặc biệt trường phái này đã có tầm ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống - xã hội [[Hoa Kỳ|Mỹ]] và trở thành học thuyết triết học đặc trưng của Mỹ thời kỳ này. So với các trường phái triết học ở phương tây khi đó, chủ nghĩa thực dụng tỏ ra có ưu thế hơn ở một đặc điểm là nó phản ánh trực tiếp những nhu cầu về lợi ích và quyền lợi của giai cấp tư sản. Do đó có thể nhận định rằng chủ nghĩa thực dụng là một học thuyết triết học với tư cách là hệ tư duy chủ đạo. Cùng với [[chủ nghĩa thực chứng]] (''positivism''), [[chủ nghĩa cấu trúc]] (''structuralism''), [[chủ nghĩa duy khoa học]] (''scientism'')...trong khuynh hướng khoa học hay duy lý hiện đại, chủ nghĩa thực dụng chủ trương con đường thứ 3 trong triết học, vượt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ cả những vấn đề cơ bản của triết học vốn được đặt ra suốt nhiều thế kỷ qua, gắn các vấn đề của triết học với các vấn đề cụ thể của khoa học, nhất là khoa học thực nghiệm.
 
Chủ nghĩa thực dụng khởi đầu từ cuối thế kỷ 19 với triết gia Mỹ [[Charles Sanders Peirce|Charles Peirce]]. Qua đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa này được phát triển bởi các ông [[William James]], [[John Dewey]], và [[George Santayana]]. Đặc biệt trường phái này đã có tầm ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống - xã hội [[Hoa Kỳ|Mỹ]] và trở thành học thuyết triết học đặc trưng của Mỹ thời kỳ này. So với các trường phái triết học ở phương tây khi đó, chủ nghĩa thực dụng tỏ ra có ưu thế hơn ở một đặc điểm là nó phản ánh trực tiếp những nhu cầu về lợi ích và quyền lợi của giai cấp tư sản. Do đó có thể nhận định rằng chủ nghĩa thực dụng là một học thuyết triết học với tư cách là hệ tư duy chủ đạo. Cùng với [[chủ nghĩa thực chứng]] (''positivism''), [[chủ nghĩa cấu trúc]] (''structuralism''), [[chủ nghĩa duy khoa học]] (''scientism'')...trong khuynh hướng khoa học hay duy lý hiện đại, chủ nghĩa thực dụng chủ trương con đường thứ 3 trong triết học, vượt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ cả những vấn đề cơ bản của triết học vốn được đặt ra suốt nhiều thế kỷ qua, gắn các vấn đề của triết học với các vấn đề cụ thể của khoa học, nhất là khoa học thực nghiệm.
==Chú thích==
{{Tham khảo}}