Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kịch nói”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 9:
Vở kịch đầu tiên theo thể cách kịch nói của Âu châu là vở ''Bệnh tưởng'' vốn là nguyên tác ''Malade imaginaire'' của văn sĩ [[người Pháp]] [[Molière]] do [[Nguyễn Văn Vĩnh]] dịch ra [[tiếng Việt]].
 
Tuy lấy mẫu từ kịch bản Pháp, kịch nói ở Việt Nam đã nhanh chóng thích nghi, trút tỉa từ nét văn hóa Việt Nam đương thời để Việt hóa môn này. Những vở kịch nói tiên khởi phải kể ''Nửa đêm truyền hịch'' ([[Trần Tử Anh]]), ''Thằng Cuội ngồi gốc cây đa'' (1948 của [[Vũ Khắc Khoan]]), diễn ở [[Nhà hát lớn Hà Nội]]. Mùa kịch thường là vào thu khi trời trở lạnh và khán giả ăn mặc trang trọng để đi xem kịch. [[Kịch thơ]] lúc đó cũng phát triển mạnh nhưngnhư các vở ''Tâm sự kẻ sang Tần'' ([[Vũ Hoàng Chương]]), ''Bến nước Ngũ Bồ'' ([[Hoàng Công Khanh]])...
 
Sang thập niên 1950 thì ban kịch Dân Nam đã có tiếng. Vở trường kịch đầu tiên ở Việt Nam là vở ''Áo người trinh nữ''.<ref name="Thoại kịch"/> Mười năm sau vào thập niên 1960 thì ở trong [[Việt Nam Cộng hòa|Nam]] đã có nhiều ban kịch như Ban kịch sống Túy Hồng. Trong khi các đoàn cải lương và hát tuồng dùng [[sân khấu]] sống, kịch nói vào giai đoạn này xuất hiện chủ yếu trên [[truyền hình]] [[THVN]]. Các đề tài lồng trong cốt truyện thường phản ảnh tình hình xã hội như các vở ''Gia đình Ông Ký'', ''Ngã rẽ cuối cùng'', ''Chuyện xảy ra lúc 0 giờ''.