Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Đông La Mã”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Liên kết ngoài: AlphamaEditor, Add categories, part of Category Project Executed time: 00:00:01.9181097 using AWB
n sửa đổi cách dùng câu
Dòng 183:
[[Tập tin:Map Byzantine Empire 1025-en.svg|nhỏ|trái|300px|Đông La Mã dưới thời Basileos II.]]
 
Người Bulgaria trong [[triều đại Cometopuli]] tiếp tục chống cự, nhưng hoàng đế [[Basileos II]] (976-1025) đã coi việc đánh bại Bulgaria là mục tiêu lớn nhất trong triều đại của mình.<ref name="B115">{{harvnb|Browning|1992|p=115}}.</ref> Cuộc tấn công đầu tiên của Basil II kết thúc trong thảm bại tại [[trận Cổng Trajan]]. Những năm tiếp theo, trong lúc Basileos II bận đương đầu với các cuộc nổi loạn ở Anatolia, quân Bulgaria tiếp túc mở rộng sự kiểm soát ở bán đảo Balkan. Chiến tranh đã kéo dài tới gần 20 năm. Quân Bulgaria đã bị tổn thất nặng nề ở [[trận Spercheios|Spercheios]] và [[trận Skopje|Skopje]], và các chiến dịch hàng năm của Basil II đã chinh phục dần dần các thành trì của Bulgaria. Cuối cùng, quân Bulgaria đã thảm bại ở [[trận Kleidion]] vào năm 1014.<ref name="B115"/> Đa phần quân Bulgaria bị bắt sống, để trừng phạt họ cũng như để làm suy yếu kẻ địch dám uy hiếp mình, Basil IIĐệ Nhị đã chora lệnh cứ 100 lính thì chọc mù mắt 99/100 tù binhngườichỉđể cho người cònthứ lại100 1một con mắt, để người lính chột đó có thể dẫn dắtđược những99 người anhlính em củavề mình vềquê nhàhương.. Nhìn thấy đội quân một thời hùng mạnh của mình như thế, Sa hoàng [[Samuel của Bulgaria|Samuil]] đã chết vì sốc nặng. Thành trì cuối cùng của Bulgaria sụp đổ vào năm 1018, và Bulgaria đã trở thành một phần của đế quốc Đông La Mã.<ref name="B115"/> Chiến thắng này đã khôi phục đường biên giới sông Donau, vốn bị mất từ thời nhà Heraclius còn cai trị.<ref name="Browning-1992-116"/>
 
==== Quan hệ với nhà nước Nga Kiev ====