Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Con lai ngan vịt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 19:
Năm 1996, Phạm Văn Trượng, Ngô Văn Vĩnh và Lương Thị Bột đã nghiên cứu lai kinh tế giữa ngan Pháp R31 với vịt CV - Super - M; kết quả con lai có sức sống cao, tỷ lệ nuôi sống đến 63 ngày tuổi đạt 100%; khối lượng cơ thể 63 ngày tuổi đạt 3.330 gram/con trong khi đó khối lượng cơ thể của ngan và vịt thuần chủng tương ứng là 2.363 gram/con và 3.090 gram/con.
 
Năm 2005, Ngô Văn Vĩnh, Hoàng Thị Lan, Lê Thị Phiên, Nguyễn Đức Trọng nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ có phôi trong thụ tinh nhân tạo để sản xuất con lai ngan-vịt giữa ngan R71 và vịt CV- Super - M.; Kếtcon quảlai chođược thấy:sinh con laira có sức sống cao (tỷ lệ nuôi sống đến 70 ngày tuổi đạt 100%), nuôi đến 70 ngày tuổi đạt khối lượng 3.320,9 gram/con; tỷ lệ thịt xẻ cao, tỷ lệ thịt có giá trị là thịt lườn và thịt đùi đạt 33,4%. Cùng thời gian này, Nguyễn Văn Hải đã nghiên cứu khả năng sản xuất gan béo từ con lai ngan vịt và các dòng ngan Pháp (R51, R71, siêu nặng) nuôi ở điều kiện khí hậu mùa hè miền Bắc Việt Nam; kết quả cho thấy khi muốn sản xuất gan béo cho năng suất cao thì phải nuôi con lai ngan vịt hoặc đối với ngan thuần phải chọn đúng dòng ngan R71, và có thể sản xuất gan béo ngay tại điều kiện khí hậu mùa hè.
 
Năm 2006, con lai giữa ngan R71 và vịt M14 được sản xuất bằng công nghệ thụ tinh nhân tạo có tỷ lệ nuôi sống đạt cao 100%; khối lượng cơ thể đạt 3.601,3 gram/con ở 10 tuần tuổi với tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng là 2,90 kg.