Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Con lai ngan vịt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 9:
Trong thực tiễn, con người đã nuôi con lai ngan vịt từ rất lâu. Con giống (ngan lai vịt) được tạo ra chủ yếu bằng phương pháp giao phối tự nhiên khi nuôi chung ngan đực với vịt cái. Giao phối tự nhiên khác loài do ngan giao phối trên cạn, vịt giao phối dưới nước nên có hạn chế là tỷ lệ thụ thai (tỷ lệ trứng có phôi) thấp, đạt 40 – 50%. 
 
Khi công nghệ thụ tinh nhân tạo ở vật nuôi phát triển, một số quốc gia như Pháp, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan đã nghiên cứu và ứng dụng thụ tinh nhân tạo vào sản xuất con giống lai giữa ngan và vịt. Áp dụng thụ tinh nhân tạo giúp nâng tỷ lệ thụ thai từ 50% lên 84%, hệ số nhân giống nhanh, hạn chế sự lây lan dịch bệnh cho quần thể.  
 
Tại Pháp, nhà khoa học B. Retailleau thuộc hãng Grimaud Freres đã thực hiện 17 cuộc thử nghiệm nuôi vỗ báo cưỡng bức lấy gan với vịt Bắc Kinh, ngan và con lai Muler giữa chúng. Khi nuôi thực nghiệm trong điều kiện thích hợp với từng loại (vịt, ngan và con lai), kết quả thử nghiệm và khảo sát cho thấy con lai Muler đạt năng suất thịt lườn cao 17,37% so với khối lượng cơ thể khi chưa mổ ở 84 ngày tuổi (84% thịt lườn được cấu thành từ cơ); lượng mỡ bụng ít 0,64%. Ngoài ra, hãng Grimaud sau hàng chục năm nghiên cứu đến nay đã tạo ra dòng ngan và vịt (M14, M15) có năng suất thịt trứng cao khi áp dụng công nghệ thụ tinh nhân tạo để sản xuất con lai Muler có màu sắc, năng suất chất lượng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.