Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Con lai ngan vịt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 19:
=== Ở Việt Nam ===
Việt Nam đã nghiên cứu tạo ra con lai ngan vịt bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo từ rất sớm. Ngăm 1986, Nguyễn Tấn Anh và Lương Tất Nhợ đã nghiên cứu thụ tinh nhân tạo giữa ngan nội với vịt Bầu và Anh Đào, kết quả cho thấy con lai có sức sống cao, tăng trọng nhanh song tỷ lệ ấp nở còn thấp.
 
Năm 2002, Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên đã thành công trong việc lai ngan đực R71 với vịt cái CV-Super-M bằng công nghệ thụ tinh nhân tạo sản xuất con lai thương phẩm nuôi lấy thịt, kết quả: tỷ lệ trứng có phôi đạt 82%; tỷ lệ nở đạt 82 – 85 % so với trứng có phôi; giảm 4 lần chi phí nuôi con đực so với giao phối tự nhiên (Giao phối tự nhiên tỷ lệ đực cái là 1/5; tương ứng với thụ tinh nhân tạo là: 1/20). Con lai Ngan - vịt có những ưu điểm: Khối lượng lúc 10 tuần tuổi: 3,3 – 3,4 kg/con; Tiêu tốn thức ăn 2,7 – 2,9 kg/kg trọng lượng; Tỷ lệ thịt xẻ lúc 10 tuần tuổi đạt 72%; Tỷ lệ mỡ 0,5 % (chỉ tiêu này của vịt và ngan là 0,6 – 0,7%); Tỷ lệ đạm 21%.
 
Năm 1996, Phạm Văn Trượng, Ngô Văn Vĩnh và Lương Thị Bột đã nghiên cứu lai kinh tế giữa ngan Pháp R31 với vịt CV - Super - M; kết quả con lai có sức sống cao, tỷ lệ nuôi sống đến 63 ngày tuổi đạt 100%; khối lượng cơ thể 63 ngày tuổi đạt 3.330 gram/con trong khi đó khối lượng cơ thể của ngan và vịt thuần chủng tương ứng là 2.363 gram/con và 3.090 gram/con.