Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ioannes II Komnenos”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 28:
 
==Ngoại hình và tư cách==
Nhà sử học người Latinh [[William thành Tyre]] đã mô tả Ioannes trông lùn tịt và xấu xí một cách bất thường, với đôi mắt, mái tóc và làn da sậm màu khiến ông được mệnh danh là 'gã người [[Moor]]'.<ref>Runciman, p. 209</ref> Mặc cho ngoại hình không được như ý muốn, Ioannes vẫn được mọi người xưng tụng là ''Kaloïōannēs'', "Ioannes Nhân từ" hay "Ioannes Hiền minh". Danh xưng này không nhằm vào cơ thể mà là tư cách của ông. Cả cha mẹ ông đều mộ đạo đến cuồng tín và Ioannes không hổ danh là 'hậu sinh khả úy'. Những triều thần của ông đều được trông mong vào việc giới hạn các cuộc trò chuyện để chuyển sang những vấn đề thiết yếu. Đồ ăn thức uống của hoàng đế thường rất đạm bạc và Ioannes hay khiển trách những cận thần sống trong cảnh xa hoa vô độ. Bài phát biểu của ông có vẻ trang nghiêm, nhưng ông cũng tham gia đối đáp những khi rảnh rỗi và thái độ mực thước của ông không loại trừ cảm giác hài hước. Là một người cha thương yêu con cái vô bờ bến, dù ông thường đòikhắt hỏikhe tiêu chuẩn cao từvới chúng, và là một người chồng chung thủy với vợ. Bất chấp lối sống khổ hạnh, Ioannes lại có quan niệm cao thượng về vai trò của triều đình và thường xuất hiện trong khung cảnh lễ nghi hết sức lộng lẫy khi thấy thuận lợi. Hoàng đế được thần dân tin yêu và hết mực sùng bái.<ref name="Choniates, p. 27">Choniates, p. 27</ref>
 
Ioannes nổi tiếng vì lòng mộ đạo và lối cai trị tương đối hòa thuận. Được lòng dân bởi chính sách khoan dung và các hình phạt được giảm nhẹ, ông được coi là một trong những nhà cai trị nhân từ hiếm hoi trong một thời kì mà sự tàn ác là tiêu chuẩn chính. Nhờ đó mà ông được ca ngợi là [[Marcus Aurelius]] của Đông La Mã.<ref>''John II'', '''The World-wide Encyclopedia and Gazetteer''', Vol. V, Ed. William Harrison De Puy, (The Christian Herald, 1908), 3654.</ref> Nhờ vào lòng mộ đạo và tính tình trong sạch của cá nhân mà ông đã tác động lên sự cải thiện đáng chú ý các tập tục dưới thời mình. Những đoạn mô tả về hoàng đế và hành động của ông cho biết rằng ông có thói nhẫn nhịn và lòng quả cảm hiếm thấy, là một chiến lược gia xuất sắc và một vị tướng tài ba, trải qua nhiều năm chinh chiến, đã cống hiến đời mình cho việc duy trì Đế quốc Đông La Mã được tồn tại lâu hơn nữa.<ref name="Choniates, p. 27"/>
Dòng 36:
Ioannes II kế vị phụ hoàng làm ''basileus'' nắm quyền trị vì vào năm 1118, nhưng từng được Alexios I phong là đồng hoàng đế ngày 1 tháng 9 năm 1092. Chính [[Niketas Choniates]] đã kể lại những hành động mà Ioannes II đảm bảo thâu tóm được quyền hành trong tay. Alexios I bày tỏ ý muốn Ioannes lên kế vị mình cho con rể vừa là sủng thần của Eirene, ''[[Caesar]]'' [[Nikephoros Bryennios Trẻ|Nikephoros Bryennios]], chồng của công chúa [[Anna Komnena]]. Alexios đã phải cố tình che đậy nhằm tránh những lời chỉ trích của Eirene về sự lựa chọn này và việc bà thỉnh cầu Nikephoros nối ngôi. Lúc Alexios sắp sửa hấp hối tại Tu viện Mangana vào ngày 15 tháng 8 năm 1118, Ioannes đang kết giao với những thân hữu mà ông có thể tin tưởng được, trong số đó có cả huynh trưởng ''[[sebastokrator|sebastokratōr]]'' [[Isaakios Komnenos (mất 1152)|Isaakios Komnenos]], bọn họ đã lẻn vào tu viện và lấy trộm chiếc nhẫn khắc ấn hoàng đế từ người cha quá cố của mình. Sau đó, trang bị vũ khí, rồi ung dung cưỡi ngựa tới Đại điện, tập hợp sự ủng hộ từ những người dân tôn phò mình lên làm hoàng đế. Eirene quá đỗi bất ngờ đến mức chẳng còn cách nào khác ngoài việc thuyết phục con mình ngừng lại, hoặc xúi giục Nikephoros dấy binh chống đối. Mặc dù Cấm vệ quân lúc đầu từ chối thừa nhận Ioannes vì ông thiếu bằng chứng về di nguyện của tiên đế, đám đông vây quanh nài ép đến nỗi vị tân hoàng đế chỉ việc bước chân vào mà thôi.<ref>Choniates, p. 6</ref><ref>Angold (1984), pp. 152-153</ref>
 
Alexios băng hà vào đêm hôm sau. Ioannes nhất quyết từ chối tham gia đám tang, bất chấp sự thúc giục của mẹ mình, vì việc nắm giữ quyền hành của ông rất mong manh. Tuy nhiên, khoảng vài ngày sau, địa vị của ông xem ra đã khá vững chắc. Vừa mới lên ngôi được một năm, Ioannes II bỗng dưng phát hiện ra một âm mưu lật đổ ông có dính dáng đến thái hậu và hoàng muội của mình. Chồng của Anna là Nikephoros có chút cảm thông với những tham vọng của vợ mình, và do thiếu sự ủng hộ của ông này mà âm mưu tiếm ngôi mới sụpvỡ đổlở. Hoàng đế bèn ra lệnh tước đoạt tài sản của Anna và giao lại cho bạn thân của mình là [[Ioannes Axouch]] trông coi. Axouch đã lễ phép từ chối và nhờ vào ảnh hưởng của ông mà tài sản của Anna cuối cùng mới được trả lại cho bà và cả hai anh em đã hòa giải được với nhau. Eirene rút về một tu viện sống cho tới cuối đời và Anna đành phải từ bỏ việc thao túng chính sự, khiến các sử gia tốn không biết bao nhiêu giấy mực để luận bàn. Tuy vậy, Nikephoros vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với người anh rể.<ref>Choniates, pp. 8-9</ref> Phòng trường hợp tiếm đoạt ngôi vị xảy ra trong tương lai mà Ioannes đã làm lễ đăng quang cho đứa con còn nhỏ tên [[Alexios Komnenos (mất 1142)|Alexios]] làm đồng hoàng đế vào năm 1122.<ref name="Choniates, p. 11">Choniates, p. 11</ref>
 
==Đối nội==
Dòng 42:
Những toan tính trong gia tộc ngăn trở ông lên nối ngôi có thể đã góp phần vào cách tiếp cận quyền hành của Ioannes, đó là bổ nhiệm những quan chức xuất thân từ bên ngoài hoàng tộc vào giúp ông cai trị đế chế. Đây là một sự khởi đầu căn bản khác hẳn phương pháp của tiên đế Alexios là chỉ ưu tiên dùng các thành viên hoàng tộc và thân bằng quyến thuộc nhằm lấp đầy tất cả các chức vụ hành chính và quân sự cấp cao.
 
Ioannes Axouch là viên cố vấn thân cận nhất của Ioannes II và là người bạn thân thiết duy nhất của ông. Axouch vốn là dân gốc Thổ bị bắt trong [[cuộc vây hãm Nicaea]] rồi đượ dâng làm quà tặng cho phụ hoàng. Tiên đế Alexios nghĩ rằng ông sẽ là người bạn đồng hành tốt cho con trai mình, và do vậy đã đem ông nuôi dưỡng chung một nhà với thái tử Ioannes. Ngay khi Ioannes II vừa lên ngôi hoàng đế đã ngay lập tức phong Axouch làm ''[[Megas Domestikos]]'' ([[tiếng Hy Lạp]]: μέγας δομέστικος). ''Megas Domestikos'' nguyên là chức tổng tư lệnh quân đội Đông La Mã. Từng có ý kiến liên quan đến việc sở hữu ấn triện của Axouch vào đầu thời Manouel I có nghĩa rằng, ngoài trọng trách quân sự ra thì ông còn là người đứng đầu chính quyền dân sự của Đế quốc. Vốn là chức danh không chính thức vào thời điểm đó với tên gọi ''[[mesazon]]'', tương đương với chức [[Tể tướng]] hay 'Tướng quốc.'<ref>Magdalino, p. 254</ref> Việc bổ nhiệm như vậy được xem là bất thường, và nguyên tắc căn bản này khác xa so với chủ nghĩa gia đình trị từng là nét đặc trưng của triều đại Alexios I. Cả hoàng tộc ít nhiều gì cũng đều tỏ ý bất bình trước quyết định này, nay lại được gia tăng trước thực tế là họ phải cúi đầu hành lễ Ioannes Axouch bất cứ khi nào gặp mặt ông.<ref>Choniates, p. 7</ref>
 
Hoàng đế hoàn toàn tự tin trong việc bổ nhiệm của mình, nhiều người trong số đó đã được chọn dựa trên tài năng chứ không phải do mối liên hệ bà con với hoàng gia và các dòng họ quý tộc có liên quan. Sự miễn cưỡng của Ioannes cho phép gia tộc mình gây ảnh hưởng lên chính phủ của ông bằng bất kỳ giá nào vẫn không thay đổi trong suốt phần đời còn lại. Ioannes đã giao chức trọng quyền cao cho một số tùy tùng riêng của phụ hoàng, chẳng hạn như [[Eustathios Kamytzes]], [[Michaelitzes Styppeiotes]] và [[George Dekanos]]. Đây là những người đã bị lu mờ về mặt chính trị suốt trong thời kỳ mẹEirene IoannesDoukaina 'buông rèm thính chính' trong những năm cuối của triều đại Alexios I.<ref>Angold (1984), p. 152</ref> Một số phải đợi lúc Ioannes II lên ngôi mới được trọng dụng, gồm có [[Gregory Taronites (protovestiarios)|Gregory Taronites]], Manouel Anemas và Theodore Vatatzes, cả hai sau này còn trở thành con rể của hoàng đế.<ref>Magdalino, pp. 207-208</ref>
 
Dù đã tách rời khỏi sự phụ thuộc chặt chẽ vào hoàng tộc và thân bằng quyến thuộc, triều đình và chính quyền của Ioannes vẫn có nhiều điểm tương đồng như của phụ hoàng, nhất là về âm hưởng và lòng mộ đạo đến mức cuồng tín. Quả thực, một bảnbộ sựutuyển tập những lời khuyên chính trị còn sót lại được diễn đạt dưới dạng thơ ca có tựa đề ''Mousai'' đem dâng lên Alexios I. ''Mousai'' thẳng thừng nhắc đến Ioannes II và khích lệ ông, trong số những chuyện khác, nhằm gây dựng công lý trong suốt thời kỳ trị vì và một quốc khố dồi dào. Lời dạy bảo về vương quyền của Alexios do vậy vẫn tiếp tục có giá trị cho con mình, ngay cả sau cái chết của vị hoàng đế già nua.<ref>Bernard and Demoen, p. 21</ref>
 
Việc tăng cường an ninh quân sự và sự ổn định kinh tế ở miền Tây Anatolia của Đông La Mã do các cuộc chinh chiến của Ioannes tạo ra cho phép ông bắt đầu thiết lập một hệ thống hành chính cấp tỉnh chính thức tại các khu vực này. Thema (tỉnh hay quân khu) xứ [[Thrakesion]] đã được tái lập, với thủ phủ chính đóng tại [[Alaşehir|Philadelphia]]. Một thema mới nữa mang tên [[Mylasa and Melanoudion]] được kiến tạo ở miền Nam Thrakesion.<ref>Haldon, p. 97</ref>
 
==Đối ngoại==
Dòng 54:
Trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Ioannes II ở phương Tây củng cố mối liên minh với các hoàng đế Đức ([[Đế quốc La Mã Thần thánh]]). Điều này là cần thiết để hạn chế hiểm họa ngoại xâm từ người Norman ở miền Nam nước Ý vào lãnh thổ Đông La Mã vùng Balkan. Mối đe dọa này đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng sau khi [[Roger II xứ Sicilia]] bành trướng bá quyền ở miền nam nước Ý và tự xưng vương. Hoàng đế [[Lothair III của Đế quốc La Mã Thần thánh|Lothair III]] nhận được sự hậu thuẫn về khoản tiền trợ cấp tài chính lớn của Đông La Mã dành cho cuộc xâm chiếm lãnh thổ Norman vào năm 1136, tiến xuống phía nam tới tận thành [[Bari]]. Giáo hoàng [[Innocent II]], với các vũng lãnh thổ thuộc quyền [[Giáo hội Công giáo La Mã|Giáo hội]] bị sự đe dọa xâm lấn của Roger II, người ủng hộ lập Giáo hoàng đối lập [[Anacletus II]], từng một thời cùng phe với Lothair và Ioannes II. Tuy vậy, liên minh này đã chứng tỏ khó có khả năng chống lại Roger, kẻ đã dùng tới vũ lực để đổi lấy sự công nhận từ Giáo hoàng vào năm 1139 ([[Hòa ước Mignano]]).<ref>Kinnamos, pp. 74-75</ref> Người kế vị của Lothair là [[Conrad III của Đức|Conrad III]] vào năm 1140 đã ngỏ ý gả một cô dâu thuộc hoàng gia Đức cho người con trai út của Ioannes là Manouel. [[Bertha xứ Sulzbach]], em vợ của Conrad, được chọn và khởi hành đến Byzantium.<ref>Angold (1984), p. 159</ref> Cùng lúc đó Roger II đã cử người tới chỗ Ioannes II để cầu hôn cho đứa con trai của mình nhưng không thành công.<ref>Kinnamos, pp. 75-76</ref>
 
Thiên hướng của Ioannes đang gây nên biết bao phiền phức cho bên nhà vợ, những người nắm quyền cai trị Hungary, mới là vấn đề chủ chốt. Thái độ chào đón dành cho các bên tranh giành ngôi vua Hungary bị trục xuất đến Constantinopolis được người Đông La Mã xem như một chính sách đảm bảo lợi ích và gốc gác cho đòn bẩy về mặt chính trị. Thế nhưng, người Hungary lại coi kiểu can thiệp này chứng tỏ dấu hiệu chiến tranh. Việc họ liên minh với dân Serb đã tạo ra những hậu quả nghiêmtrầm trọng nhằm tiếp tục ách thống trị của Đông La Mã ở vùng Balkan phía Tây.<ref>Angold (1984), pp. 153-154</ref>
 
Tại miền Đông Ioannes đã cố gắng, giống như phụ hoàng, khai thác sựmâu khácthuẫn biệtgay gắt giữa Hồi vương Seljuq [[Hồi quốc Rum|Iconium]] và vương triều [[Danishmendid]] đang kiểm soát một phần vùng nội địa phía đông bắc Anatolia. Năm 1134 Hồi vương Seljuq [[Mesud I|Mas'ud]] đã gửi viện binh tới giúp Ioannes đánh chiếm thành [[Kastamuni]] đang nằm trong tay quân Danishmend, nhưng liên minh này tỏ ra không đáng tin cậy khi quân Seljuq vội vàng từ bỏ cuộc chinh phạt, nhổ trại ngay giữa đêm hôm khuya khoắt.<ref name="Choniates, pp. 12-13">Choniates, pp. 12-13</ref>
 
Cả [[các tiểu quốc Thập tự quân]] vùng Cận Đông nhìn chung đều thừa nhận chủ quyền Antiochia thuộc về Đông La Mã vẫn còn giá trị pháp lý, dù nó được nhìn nhận theo cách võ đoán chỉ khi hoàng đế Đông La Mã nằm trong vị thế thực thi chức năng quân sự thì mới có khả năng được công nhận trên thực tế. Đỉnh cao trong sách lược ngoại giao dưới thời Ioannes tại vùng Cận Đông vào năm 1137 là khi ông tiếp nhận sự thần phục của [[Thân vơngvương quốc Antiochia]], [[Bá quốc Edessa]] và [[Bá quốc Tripoli]]. Lòng ham muốn nắm giữ bá quyền ở một mức độ lên tất cả các tiểu quốc Thập tự quân của Đông La Mã đã được thực hiện nghiêm chỉnh, bằng chứng là sự hoảng hốt tràn ngập trongcủa [[Vương quốc Jerusalem]] khi Ioannes báo cho [[Fulk of Jerusalem|Vua Fulk]] biết về kế hoạch sửa soạn cho một cuộc hành hương có vũ trang đến Thánh Địa (1142).<ref name="Runciman, pp. 212-213, 222-224">Runciman, pp. 212-213, 222-224</ref>
 
==Vấn đề tôn giáo==
Dòng 69:
 
==Chiến công==
Mặc dù hoàng đế đã trải qua một số trận đánh dàn quân đáng chú ý, chiến lược quân sự của Ioannes II lại dựa vào việc đánh chiếm và giữ chặt các khu định cư với tường thành bao quanh để xây dựng vùng biên cương có khả năngdễ phòng thủ được. Đích thân Ioannes đã tiến hành khoảng hai mươi lăm lần vây thành trong suốt triều đại của mình.<ref>Birkenmeier, pp. 86-87</ref>
 
===Xung đột với thị quốc Venezia===