Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mani giáo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Mhung121 đã đổi Mani giáo thành Minh giáo qua đổi hướng: Cần một bài cơ bản về Minh giáo còn có ích hơn là đọc bài Mani giáo thiếu thông tin này.
Bài viết cơ bản, mong mọi người bổ sung để hoàn thiện, cám ơn.
Dòng 1:
{{thiếu== nguồnNguồn gốc}} ==
'''Từ Iran sang Trung Quốc:'''
'''Mani giáo''' là một giáo phái bắt nguồn từ [[Iran|Ba Tư]], được lưu truyền rộng rãi ở [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] thời [[nhà Đường]]. Giáo phái này thờ thần ánh sáng. Tín đồ Mani giáo thường ít tiếp xúc với người đời nên luôn bị coi là [[tà giáo]], bị quan quân triều đình truy bắt ráo riết. Nhưng tín đồ của Mani giáo luôn sống một cuộc sống thanh tịnh. Họ quan tâm vào 3 bộ phận trên cơ thể đó là: "Miệng, Tay, Tim". Do đó, họ không ăn thịt mà luôn ăn rau quả vì sợ làm ô uế miệng{{fact|date = ngày 7 tháng 1 năm 2013}}, họ không sát hại động vật hay giết người vì sợ làm ô uế đôi tay, họ không có tình yêu đôi lứa và vợ chồng vị sợ làm ô uế con tim. Họ cho rằng có con là một việc làm sai trái vì chúa trời tạo ra con người vốn là một thứ đầy tội lỗi, nếu sinh con tức là tạo thêm một thế hệ tội lỗi nữa. Quan niệm này bây giờ không được mọi người chấp nhận nên cho đến nay, số [[tín đồ]] của Mani giáo còn lại rất ít.{{Tham khảo}}
 
'''Minh giáo''' (hay còn gọi Minh Tôn giáo, Mạt Ni giáo, Mâu Ni giáo), là một tôn giáo cổ của Iran, vốn xuất phát từ Mani giáo - Manichaeism, do Mani (216-277, người Ba Tư) sáng lập vào khoảng thế kỷ 3, được truyền bá theo hai hướng Đông - Tây, cực thịnh một thời, ảnh hưởng sâu rộng. Về sau, giáo phái này tàn lụi dần và ít nghe tiếng tăm. 
{{sơ khai tôn giáo}}
 
Năm 1902, GS A.Granweldel, Bảo tàng Nhân chủng học Berlin - Đức, cùng cộng sự đã phát hiện số lượng lớn bản kinh của Mani giáo tại các hang động miền Tân Cương - Trung Quốc. Từ đó về sau, không ít nhà khoa học thế giới đã bỏ nhiều công sức để thu thập, tìm hiểu về giáo phái này và đã có những thành tựu quý giá. Hiện đã có học giả của 8 nước công bố công trình của mình với các cổ bản bằng văn tự Ba Tư, Đột Quyết, Pali...
 
Giáo nghĩa chính thống của Mani giáo nằm trong bộ Nhị Tông kinh bằng chữ Ba Tư, truyền bá tư tưởng “Nhị tông, tam tế”. “Nhị tông” là hai thái cực sáng và tối, thiện và ác; “tam tế” là sơ tế, trung tế và hậu tế, tương ứng với quá khứ, hiện tại và tương lai. Tương truyền rằng tại hậu kỳ sơ tế và trung tế, Minh Vương cùng các vị thần của Quang Minh vương quốc liên tục chiến đấu với quần ma của vương quốc Bóng Tối do Ma Vương đứng đầu; đến hậu kỳ trung tế thì giành toàn thắng, thế giới bị hủy diệt, Minh Vương (Đại Minh Tôn) đưa nhân loại trở về Quang Minh vương quốc.
 
Xét từ giáo nghĩa, Mani giáo mang tư tưởng mãnh liệt về hậu kiếp và cứu độ chúng sinh. Chính điều này đã khiến Mani giáo dễ dàng dung hợp với tín ngưỡng dân gian Trung Quốc theo những tín điều cơ bản của Phật giáo, Đạo giáo...
 
Khởi thủy, khi Mani sáng lập Mani giáo đã từng phát thệ đại nguyện là truyền bá giáo pháp này trên khắp địa cầu, trở thành tôn giáo thế giới. Vào đầu thế kỷ XX, tại vùng Tulufan (Tân Cương) các nhà khảo cổ phát hiện bản kinh Mani giáo bằng chữ Ba Tư thời Trung cổ chép những dòng đầy hào khí: “Tôn giáo mà ta đã chọn phải hơn gấp mười lần bất cứ tôn giáo nào trước đây".
 
'''Quan hệ giữa triều Minh và Minh giáo:'''
 
Chu Nguyên Chương (1328 -1398), là vị hoàng đế khai quốc của vương triều nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Câu hỏi vì sao ông lấy quốc hiệu “Minh” cũng là câu đố lịch sử hấp dẫn. Trong Minh giáo với đế quốc Đại Minh, GS Ngô Hàm nhận định: “Chỉ có Minh Thái Tổ năm Chí Chính thứ 27 (1367) lấy niên hiệu Ngô Nguyên Niên, năm sau lên ngôi hoàng đế lấy quốc hiệu Đại Minh, niên hiệu Hồng Võ. “Ngô” không phải là quốc hiệu, “Minh” không phải địa danh lúc đầu khởi nghĩa hay quan tước được phong, cũng chẳng phải truy nguyên nguồn gốc từ Hậu Đường, Hậu Hán...”. 
 
Quốc hiệu “Minh” thể hiện một số đặc điểm riêng tư trong cuộc đời của vị hoàng đế nông dân này, vì danh xưng có quan hệ đến “Minh giáo”, “Đại tiểu Minh Vương xuất thế kinh” mà ông từng là giáo đồ.
 
== Minh giáo trong tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung ==
- Trong tiểu thuyết '''Ỷ thiên Đồ long ký'''
 
Minh giáo cùng với Thiếu Lâm và Cái Bang được xem là 3 giáo phái, môn phái và bang hội hùng mạnh nhất võ lâm. Tổng đàn của Minh giáo đặt trên đỉnh Quang Minh, dãy núi Côn Luân. Dưới chức giáo chủ là chức Quang Minh tả sứ và Quang Minh hữu sứ. Minh giáo thờ thần lửa, lấy hành hiệp trượng nghĩa, cứu giúp dân lành làm tôn chỉ. Dưới triều đại giáo chủ đời thứ 32 là Dương Đính Thiên, Minh giáo nhiều nhân tài kẻ sĩ, khí đồ hưng vượng. Tôn chỉ của Minh giáo là hành hiệp trượng nghĩa, cứu giúp dân lành. Sau khi Dương Đính Thiên mất, Minh giáo nội bộ lục đục, bộ thuộc không ai cai quản vi phạm tôn chỉ làm nhiều điều càn rỡ, nên bị giang hồ võ lâm khinh ghét.
 
Trong tiểu thuyết còn có đoạn viết:
 
"''Trương Vô Kỵ mở sách ra, thấy viết bằng chữ nhỏ theo lối khải, mọi việc đều dẫn chứng sách vở rõ ràng. Trong sách kể lại minh bạch, Minh giáo nguyên từ nước Ba Tư, tên thật là Ma Ni giáo, truyền vào Trung thổ từ Diên Tải nguyên niên, đời Đường Võ Hậu. Thời đó người Ba Tư tên là Phí Đa Diên mang bộ Tam Tông Kinh của Minh giáo đến triều, là lần đầu tiên người Trung Quốc biết đến bộ kinh này. Ngày hai mươi chín tháng sáu năm thứ ba đời Đại Lịch nhà Đường, chùa Minh giáo Đại Vân Quang Minh được xây cất tại Lạc Dương, Trường An. Sau đó tại các thị trấn lớn như Thái Nguyên, Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu, Việt Châu cũng đều có Đại Vân Quang Minh tự. Tới năm Hội Xương thứ ba, triều đình ra lệnh giết giáo đồ, thế lực Minh giáo đại suy. Từ đó về sau, Minh giáo trở thành một tôn giáo bí mật, phạm cấm, đời nào cũng bị quan phủ truy lùng giết chóc. Để có thể sinh tồn, người trong Minh giáo không thể không hành sự ngụy bí, để rồi chữ Ma trong Ma Ni bị đổi thành Ma, đồng nghĩa với tà ma, người ngoài gọi là ma giáo''."
 
Sau này Trương Vô Kỵ lên làm giáo chủ, đã thống nhất quần hùng, hóa giải mọi hận thù với các đại môn phái. Minh giáo ngày càng mở rộng, thế lực hùng mạnh, góp công lớn đánh đổ nhà Nguyên. (Chu Nguyên Chương cũng được nhắc đến trong truyện, là người có công nhất thống thiên hạ, lập ra nhà Minh).
 
- Trong tiểu thuyết '''Tiếu ngạo giang hồ'''
 
Thời gian được nhắc đến trong bộ Tiếu ngạo giang hồ là cuối thời nhà Minh (nối tiếp thời gian trong bộ Ỷ thiên Đồ long ký). Tuy Kim Dung không nhắc đến tên Minh giáo, nhưng người đọc cũng nhận ra được Nhật Nguyệt thần giáo chính là Minh giáo. (Trong truyện, tổng đà Nhật Nguyệt thần giáo đóng trên đỉnh Quang Minh, là địa bàn của Minh giáo. Ngoài ra, dưới chức giáo chủ vẫn giữ nguyên chức Quang Minh tả sứ, vốn là chức vụ của Minh giáo lúc trước).{{Tham khảo}}
 
[[Thể loại:Iran]]