Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Plutoni”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Reflinks: Converting bare references
Dòng 96:
}}</ref> Tỷ trọng của các thù hình khác nhau thay đổi từ 16,00 g/cm<sup>3</sup> đến 19,86 g/cm<sup>3</sup>.<ref name="CRC2006p4-27" />
 
Việc tồn tại các dạng thù hình này làm cho việc gia công plutoni trở nên rất khó, vì nó thay đổi trạng thái một cách dễ dàng. Ví dụ dạng α tồn tại ở nhiệt độ phòng trong plutoni chưa được gia công. Nó có đặc điểm gia công tương tự như [[gang]] nhưng biến đổi thành dạng β có tính dẻo và dễ uốn ở nhiệt độ cao hơn một chút.<ref name = "Miner1968p542">{{harvnb|Miner|1968|p = 542}}</ref> Các nguyên nhân dẫn đến sự phức tạp về các pha thì chưa được hiểu một cách toàn vẹn. Dạng α có cấu trúc [[hệ tinh thể đơn nghiêng|tinh thể đơn tà]] có tính đối xứng thấp, có tính giòn, bền, nén được, và dẫn suất kém.<ref name = "Baker1983"/>
 
Plutoni ở dạng δ thường hình thành ở nhiệt độ từ 310&nbsp;°C đến 452&nbsp;°C, nhưng nó ổn định ở nhiệt độ phòng khi ở dạng hợp kim với một lượng nhỏ [[gali|galli]], [[nhôm]], hay [[cesi]], làm tăng khả năng làm việc và làm cho có thể hàn nó được.<ref name = "Miner1968p542">{{harvnb|Miner|1968|p = 542}}</ref> Dạng delta có các tính chất kim loại đặc trưng hơn, và tương đối bền và dễ uốn như nhôm.<ref name = "Baker1983"/> Trong vũ khí phân hạch, [[sóng sóc]] nổ được dùng để nén lõi plutoni cũng gây ra sự chuyển dạng từ pha delta thông thường sang pha anpha đặc hơn, có ý nghĩa ứng dụng để đạt đến mức [[siêu tới hạn]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.globalsecurity.org/wmd/intro/pu-phase.htm|title=Plutonium Crystal Phase Transitions|publisher=GlobalSecurity.org}}</ref> Pha ε là dạng thù hình rắn ở nhiệt độ cao nhất, thể hiện tính tự khuếch tán nguyên tử cao bất thường so với các nguyên tố khác.<ref name = "HeckerPlutonium"/>
 
=== Phân hạch hạt nhân ===
Dòng 227:
=== Các hợp chất ===
[[Tập tin:Plutonium in solution.jpg|nhỏ|phải|300px|Các trạng thái ôxy hóa của plutoni trong dung dịch|alt=Five liuids in glass bottles: violet, label Pu(III); dark brown, label Pu(IV)HClO4; light purple, label Pu(V); light brown, label Pu(VI); dark green, label Pu(VII).]]
Ở nhiệt độ phòng, plutoni nguyên chất có màu bạc nhưng sẽ chuyển sang màu xỉn khi bị ôxy hóa.<ref>{{harvnb|Heiserman|1992|p=339}}</ref> Plutoni có 4 trạng thái ôxy hóa phổ biến trong dung dịch gốc nước và một dạng hiềm gặp hơn gồm:<ref name = "CRC2006p4-27">{{harvnb|Lide|2006|pp = 4–27}}</ref>
* Pu(III), ion Pu<sup>3+</sup> (oải hương lam)
* Pu(IV), ion Pu<sup>4+</sup> (nâu vàng)
Dòng 262:
|page = 840
|year = 1994
}}</ref> Nó phản ứng với các [[axít]], [[ôxy]], và hơi nước nhưng không phản ứng với [[kiền]], và dễ dàng hòa tan trong các [[axit clohydric]], [[axit hydroiodic|hydroiodic]] và [[axit perchloric|perchloric]].<ref name = "Miner1968p545">{{harvnb|Miner|1968|p = 545}}</ref> Kim loại nóng chảy phải được cất giữ trong môi trường [[chân không]] hoặc [[khí hiếm|khí trơ]] để ngăn phản ứng với không khí.<ref name = "Miner1968p542">{{harvnb|Miner|1968|p = 542}}</ref> Ở 135&nbsp;°C kim loại plutoni sẽ bốc cháy trong không khí và sẽ nổ nếu có mặt [[cacbon tetrachlorua]].<ref name = "Emsley2001"/>
 
[[Tập tin:Plutonium pyrophoricity.jpg|nhỏ|trái|Plutonium [[pyrophoricity]] can cause it to look like a glowing ember under certain conditions.|alt=A black block on a table with red spots on top and yellow powder around it.]]
Dòng 274:
|work = Wireless Information System for Emergency Responders (WISER)
|accessdate = ngày 23 tháng 11 năm 2008
}} (public domain text)</ref> Nếu kim loại của nó tiếp xúc đủ lâu với một lượng hơi nước nhất định thì sẽ hình thành một lớp bột [[Plutoni(IV) ôxít|PuO<sub>2</sub>]] phủ lên bề mặt của nó.<ref name = "WISER"/> Quá trình này cũng tạo thành [[plutoni hydrit]] nhưng với lượng nước nhiều hơn thì chỉ tạo ra PuO<sub>2</sub>.<ref name = "Miner1968p545">{{harvnb|Miner|1968|p = 545}}</ref>
 
Với lớp áo này, kim có khả năng tự bốc cháy, vì thế kim loại plutoni thường được vận chuyển trong môi trường trơ và không như nitơ hay argon. Ôxy là chậm các hiệu ứng của các chất ẩm và đóng vai trò như chất thụ động.<ref name = "WISER"/>
 
Plutoni thể hiện tốc độ phản ứng mạnh, thuận nghịch với hydro tinh khiết tạo thành [[plutonium hydrua]].<ref name = "HeckerPlutonium"/> Nó cũng sẵn sàng phản ứng với ôxy tạo thành PuO và PuO<sub>2</sub> cũng như các ôxit trung gian; plutoni ôxit tăng hơn 40% thể tích so với plutoni kim loại. Nó phản ứng với các [[halogen]] tạo ra các hợp chất dạng PuX<sub>3</sub>, với X có thể là [[Plutoni(III) florua|F]], [[Plutoni(III) clorua|Cl]], Br hoặc I; [[Plutoni tetraflorua|PuF<sub>4</sub>]] cũng có mặt. Các oxyhalua sau cũng được tìm thấy: PuOCl, PuOBr và PuOI. Nó sẽ phản ứng ớ cacbon để tạo ra PuC, nitơ tạo ra PuN và [[silic]] tạo ra PuSi<sub>2</sub>.<ref name = "CRC2006p4-27">{{harvnb|Lide|2006|pp = 4–27}}</ref><ref name = "Emsley2001"/>
 
Nồi được dùng để chứa plutoni cần chịu được các tính chất khử mạnh của nó. Các [[kim loại chịu lửa]] như [[tantalum]] và [[wolfram|tungsten]] cùng với các ôxit bền hơn như [[boride]], [[cacbua|carbide]], [[nitride]] và [[silicide]] có thể chịu được các tính chất này. Quá trình nóng chảy trong [[electric arc furnace]] có thể được dùng để tạo ra các thỏi nhỏ kim loại mà không cần dùng nồi nấu.<ref name = "Miner1968p542">{{harvnb|Miner|1968|p = 542}}</ref>
 
[[Xeri|Cerium]] được dùng làm chất có tính chất hóa học giống plutoni để làm vật dụng chứa, chiết tách và các công nghệ khác.<ref>{{chú thích tạp chí|title=Low Temperature Reaction of ReillexTM HPQ and Nitric Acid|author=Crooks, W. J. ''et al.''|url=http://sti.srs.gov/fulltext/ms2000068/ms2000068.html|doi=10.1081/SEI-120014371|journal=Solvent Extraction and Ion Exchange|volume=20|year=2002|page=543}}</ref>
 
=== Tạo hợp kim ===
Plutoni có thể tạo một số hợp kim và các hợp chất trung giann với hầu hết các kim loại khác, ngoại trừ các [[kim loại kiềm]] như [[liti|lithi]], [[natri]], [[kali]], và [[rubiđi|rubidi]]; và các [[kim loại kiềm thổ]] như [[magiê]], [[canxi]], [[stronti]], và [[bari]]; và [[kim loại đất hiếm]] như [[europi]] và [[ytterbi]].<ref name = "Miner1968p545">{{harvnb|Miner|1968|p = 545}}</ref> Ngoài ra, các kim loại có thể gia công như [[crom|crôm]], [[molypden|molybden]], [[niobi]], [[tantali]], và [[wolfram|tungsten]] có thể hòa tan trong dung dịch plutoni, nhưng không hòa tan hoặc hòa tan rất ít trong plutoni rắn.<ref name = "Miner1968p545">{{harvnb|Miner|1968|p = 545}}</ref> [[Gali|Galli]], [[nhôm]], [[americi]], [[scandi]] và [[ceri]] có thể ổn định hóa đồng phân δ của plutoni ở nhiệt độ phòng. [[Silic]], [[indi]], [[kẽm]] và [[zirconi]] cho phép tạo thành đồng phân δ khi làm lạnh nhanh. Một lượng lớn [[hafni]], [[holmi]] và [[thali]] cũng cho phép duy trì pha δ ở nhiệt độ phòng. [[Neptuni]] là nguyên tố duy nhất có thể ổn định pha α ở nhiệt độ cao hơn.<ref name = "HeckerPlutonium"/>
 
Các hợp kim plutoni có thể được tạo ra bằng cách cho kim loại cần thiết vào plutoni nóng chảy. Nếu kim loại tạo hợp kim đủ tính khử, plutoni có thể được cho vào ở dạng ôxít hay halua. Các hợp kim gali-plutoni pha δ và nhôm-plutoni được tạo ra bằng cách thêm [[plutoni(III) florua]] vào gali hoặc nhôm nóng chảy, đây là một điểm thuận lợi nhằm tránh việc tiếp xúc trực tiếp với kim loại plutoni có tính phản ứng cao.<ref>{{chú thích sách|url=http://books.google.com/?id=W3FnEOg8tS4C&pg=PA169|page=169|title=Nuclear forensic analysis|author=Moody, Kenton James; Hutcheon, Ian D.; Grant, Patrick M.|publisher=CRC Press|year=2005|isbn=0-8493-1513-1}}</ref>
Dòng 291:
* [[Hợp kim plutoni-galli alloy|Plutoni-galli]] được dùng để ổn định hóa pha δ của plutoni, nhằm tránh các vấn đề gặp phải khi nó chuyển sang pha α và pha α-δ. Ứng dụng chủ yếu của nó là trong các [[pit]] của [[thiết kế vũ khí hạt nhân|implosion nuclear weapons]].<ref>{{chú thích tạp chí|url=http://books.google.com/?id=0o4DnYptWdgC&pg=PA71|page=71|title=ECS transactions|publisher=Electrochemical Society |author=Kolman, D. G. and Colletti, L. P.|chapter=The aqueous corrosion behavior of plutonium metal and plutonium-gallium alloys exposed to aqueous nitrate and chloride solutions|volume=16|year=2009|issue=52}}</ref>
* '''Plutoni-nhôm''' là một hợp kim thay thế cho hợp kim Pu-Ga. Nó là thành phần ban đầu dùng trong việc ổn định hóa pha δ, nhưng nó có khuynh hướng phản ứng với các hạt anpha và giải phóng neutron làm giảm công năng của nó trong các vũ pit của vũ khí hạt nhân. Hợp kim plutoni-nhôm cũng có thể được ứng dụng làm một phần của [[nhiên liệu hạt nhân]].<ref>{{chú thích sách|url=http://www.csirc.net/docs/reports/ref_066.pdf|title=Canadian Research Reactors|author=Hurst, D. G. and Ward, A. G.|publisher= Los Alamos National Laboratory}}</ref>
* Hợp kim '''plutoni-galli-coban''' (PuCoGa<sub>5</sub>) là một chất siêu dẫn phi truyền thống ở nhiệt độ dưới 18,5 [[kelvin]], cường độ lớn hơn giá trị cao nhất giữa các hệ [[fermion nặng]], và có dòng điện tới hạn lớn.<ref name="physicsworld.com">{{chú thích báo|url=http://physicsworld.com/cws/article/news/16443|title=Plutonium is also a superconductor|publisher=PhysicsWeb.org|author=Dumé, Belle|date=ngày 20 tháng 11 năm 2002}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí|url=http://www.lanl.gov/orgs/mpa/files/mrhighlights/LALP-06-072.pdf|author=Curro, N. J. |title=Unconventional superconductivity in PuCoGa5|date=Spring 2006|publisher=Los Alamos National Laboratory}}</ref>
* Hợp kim '''plutoni-zirconi''' có thể được sử dụng làm [[nhiên liệu hạt nhân]].<ref>McCuaig, Franklin D. "Pu-Zr alloy for high-temperature foil-type fuel" {{US patent|4059439}}, Issued on ngày 22 tháng 11 năm 1977</ref>
* Các hợp kim '''plutoni-ceri''' và '''plutoni-ceri-coban''' cũng được dùng làm nhiên liệu hạt nhân.<ref>{{chú thích sách|url=http://books.google.com/?id=L79odes2ihEC&pg=PA73|page=73|title=Nuclear Energy|author=Jha, D.K.|publisher=Discovery Publishing House|year=2004|isbn=8171418848}}</ref>
Dòng 381:
Một bài báo về việc phát hiện này đã được nhóm nghiên cứu gởi đến tạp chí ''[[Physical Review]]'' vào tháng 3 năm 1941.<ref name = "Emsley2001"/> Bài báo đã được rút lại trước khi được đăng do họ phát hiện rằng một đồng vị của nguyên tố mới (plutoni-239) có thể trải qua sự phân hạch hạt nhân theo cách mà có thể dùng nó làm [[vũ khí hạt nhân|bom hạt nhân]]. Việc xuất bản đã được trì hoãn đến 1 năm sau khi kết thúc [[chiến tranh thế giới thứ hai|chiến tranh thế giới thứ 2]] do vấn đề an ninh.<ref name = "Stwertka1998">{{harvnb|Stwertka|1998}}</ref>
 
Edwin McMillan gần đây đã đặt tên cho nguyên tố siêu urani đầu tiên theo tên hành tinh [[Neptune]] và đã đề xuất rằng nguyên tố 94 tiếp theo trong dãi này cần đặt theo tên hành tinh tiếp theo là [[Sao Diêm Vương|Pluto]].<ref name = "Heiserman1992">{{harvnb|Heiserman|1992|p=338}}</ref><ref group = "note">Đây không phải là lần đầu tiên có người đề xuất đặt tên một nguyên tố là "plutonium." Một thập kỷ sau khi phát hiện ra bari, giáo sư đại học Cambridge đề xuất đặt tên nó là "plutonium" do nguyên tố ngàyn<!-- g -->ày không nặng (đề nghị theo gốc [[tiếng Hy Lạp|Hy Lạp]], ''barys'' là nặng). Ông giải thích rằng, vì nó được tạo ra bằng kỹ thuật tương đối mới [[điện phân]], do đó nêm đặt tên tượng trưng cho lửa. Vì vậy nó được đổi tên sang vị thần Roman ở cõi âm, [[Pluto (thần)|Pluto]]. {{harv|Heiserman|1992}}<!-- Note: page 338 --></ref> Seaborg ban đầu dự định đặt tên nguyên tố này là "plutium", nhưng sau đó ông nghĩ rằng nó nghrnghe không hay bằng "plutonium."<ref name="Clark57">
{{chú thích tạp chí
|last = Clark
Dòng 609:
|year = 1997
|accessdate = ngày 21 tháng 12 năm 2008
}}</ref><ref group = note>Một lượng nhiều trong số này đã được sử dụng để làm các lõi có khả năng phân hạch của một kiểu vũ khí hạt nhân nhiệt được dùng trong [[thiết kế Teller–Ulam]]. Chúng cũng được gọi là 'bom hydro' là các biến thể của vũ khí hạt nhân dùng một quả bom phân hạch để kích thích [[phản ứng hợp hạch hạt nhân]] của các đồng vị [[hiđrô|hydro]]. Sức phá hủy của nó thường đạt vài triệu tấn năng lượng TNT quy đổi khi so sánh với hàng ngàn tấn TNT quy đổi của các thiết bị chỉ có phân hạch.{{harv|Emsley|2001}}</ref> Mỗi năm có khoảng 20 tấn nguyên tố này được sản xuất đều đều ở dạng sản phẩm phụ của ngành công nghiệp [[năng lượng hạt nhân|điện hạt nhân]].<ref name = "CRC2006p4-27"autogenerated1>{{harvnb|CRC|2006|pp = 4–27}}</ref> Có khoảng 1000 tấn plutoni có thể được dự trữ với hơn 200 tấn được lấy ra từ các vũ khí hạt nhân.<ref name = "Emsley2001"/>
[[SIPRI]] đã ước tính rằng plutoni thế giới năm 2007 vào khoảng 500 tấn, phân đều trong các ứng dụng dân dụng và vũ khí.<ref>{{chú thích sách|title=SIPRI Yearbook 2007: Armaments, Disarmament, and International Security|author=[[Stockholm International Peace Research Institute]]|publisher=[[Oxford University Press]]|year=2007|page=567|isbn=0199230218, 9780199230211|url=http://books.google.com/?id=2M0C6SERFG0C&pg=PA567}}</ref>
 
Dòng 732:
== Ghi chú ==
{{Tham khảo|group="Ghi chú"}}
<references group="note"/>
 
== Tham khảo ==
{{Tham khảo|colwidth=30em}}