Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyệt Đình”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
xóa các nguồn tự xuất bản
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = Nguyệt Đình nữ sĩ
| tước vị = [[Công chúa]] [[Việt Nam]]
| thêm =
| hình =
| cỡ hình =
| ghi chú hình =
| tên đầy đủ = Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh (阮福永禎)
| chứctước vịhiệu = Quy Đức công chúa (歸德公主)
| tại vị = [[1876]] - [[1892]]
| thụy hiệu = Cung Thục (恭淑)
| tiền nhiệm =
| cha = [[Nguyễn Thánh Tổ]]<br>Minh Mạng hoàng đế
| kế nhiệm =
| tên đầy đủmẹ = [[Nguyễn Phúc VĩnhThị TrinhBửu]]
| cha = [[Minh Mạng]]
| mẹ = Thục tần Nguyễn Thị Bửu
| sinh = [[21 tháng 6]], [[1824]]
| nơi sinh = [[Huế]], [[Tên gọi Việt Nam#Đại Nam|Đại Nam]]
Hàng 23 ⟶ 21:
}}
 
'''Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh''' ([[chữ Hán]]: 阮福永禎; [[21 tháng 6]], [[1824]] - [[18 tháng 4]], [[1892]]), [[biểu tự]] '''Trọng Khanh''' (仲卿), hiệu '''Nguyệt Đình''' (月亭), là hoàngmột nữ[[công thứ mười tám của vuachúa]] [[Minhnhà MạngNguyễn]], người chị cả trong ba cô em gái của [[Tùng Thiện Vương]] Miên Thẩm, (haimột thi em kiarất nổi [[Maitiếng Am]]trong văn [[Huệđàn Phố]])không chỉ thời mộtNguyễn trong ''Tamcòn Khanh''trong củatoàn bộ [[nhàlịch Nguyễn]],sử [[Việt Nam]].
 
Bà cùng hai cô em là [[Mai Am]] và [[Huệ Phố]] được gọi chung là [[Nguyễn triều Tam Khanh]] (阮朝三卿).
 
==Tiểu sử==
'''Hoàng nữ Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh''' sinh ngày 25 tháng 5 năm [[Giáp Thân]] (tức ngày [[21 tháng 6]] năm [[1824]])., Thuở con Nguyệtgái Đìnhthứ 18 trongcủa cung,[[Nguyễn nămThánh [[1849Tổ]], Minh cùngMạng hai em đã kể trên theoĐế, mẹ là Thục tântần [[Nguyễn Thị Bửu]] (阮氏宝). Năm [[18011849]]-[[1851]]), bà cùng hai em là Mai Am và Huệ Phố theo mẹ ra ở Tiêu Viên trong phủ của anh trai là Tùng Thiện vương Miên Thẩm. Vốn thông minh, ham đọc sách, lại được anh trai là Tùng Thiện vương chỉ bảo nên bà sớm làu thông kinh truyện.
 
:''ChúaNăm (Nguyệt[[1850]], Đìnhbà kết hôn với [[Phạm Đăng Thuật]] (范登述), tháccon sinhtrai của nhàđại vuathần Đức quốc công [[Phạm Đăng Hưng]] và là em trai của [[Từ Dụ|Nghi Thiên Chương hoàng hậu]]. Hai vợ chồng sống hạnh phúc, xướng họa tương đắc. Bà tuy lấy chồng người họ quý thích, mà khiêm tốn giữ gìn, không ưa xa xỉ, duy chỉ thích sách vở mà thôi.''<ref>Sử quán triều Nguyễn, ''Đại Nam liệt truyện tập 3'', bản dịch của Viện Sử học, Nxn [[Thuận Hóa]], [[Huế]], 1993, tr. 181.</ref>. Hai vợ chồng chỉ sinh được một gái tên Uyển La, nhưng mất sớm.
Vốn thông minh, ham đọc sách, lại được anh [[Tùng Thiện Vương|Miên Thẩm]] chỉ bảo nên Nguyệt Đình sớm làu thông kinh truyện.
 
Năm [[1861]], Phò mã Phạm Đăng Thuật vâng mệnh vào [[Nam Kỳ]] xem xét rồi chết việc nước. Tự Đức Đế rất thương tiếc, truy tặng hàm ''Quang Lộc tự khanh''. Kể từ đó, Nguyệt Đình thủ tiết, nuôi cháu là [[Phạm Đăng Tiến]] (con của [[Phạm Đăng Thiệu]]) làm thừa tự, nhưng rồi thấy Tiến vô hạnh, bà từ bỏ, dựng từ đường riêng<ref>''Quy Đức công chúa từ đường'' ở thôn Thượng Hai xã Thủy Xuân, thành phố Huế.</ref> ở trước mộ chồng.
Năm [[1850]], bà kết hôn với Phạm Đăng Thuật, con trai của đại thần [[Phạm Đăng Hưng]], em của Phạm Thị Hằng (tức bà [[Từ Dụ]], vợ vua [[Thiệu Trị]], mẹ vua [[Tự Đức]]).
 
Năm Tự Đức thứ 20 ([[1876]]), bà được phong '''Quy Đức công chúa''' (歸德公主). Năm [[1875]], bà tâu xin được giao cho xã sở tại (Dương Xuân), chọn người coi giữ việc thờ cúng nơi từ đường.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, xướng họa tương đắc.
Sách ''Đại Nam liệt truyện'' chép:
:''Chúa (Nguyệt Đình) thác sinh ở nhà vua, lấy chồng người họ quý thích, mà khiêm tốn giữ gìn, không ưa xa xỉ, duy chỉ thích sách vở mà thôi.''<ref>Sử quán triều Nguyễn, ''Đại Nam liệt truyện tập 3'', bản dịch của Viện Sử học, Nxn [[Thuận Hóa]], [[Huế]], 1993, tr. 181.</ref>
 
Nguyệt Đình mất ngàyNgày [[22 tháng 3]] năm Nhâm Thìn (tức [[18 tháng 4]] năm [[1892]]) triều [[Thành Thái]], Quy Đức công chúa Vĩnh Trinh qua đời, hưởng thọ 68 tuổi, táng chung một chỗ với chồng, thụy '''Cung Thục''' (恭淑).
Sáng ngày 1 tháng 9 năm [[1858]], thực dân [[Pháp]] bắn vào cảng [[Đà Nẵng]], mở màn cuộc xâm lấn lâu dài tại Việt Nam. Năm [[1861]], Phò mã Phạm Đăng Thuật vâng mệnh vào [[Nam Kỳ]] xem xét rồi chết việc nước. Vua Tự Đức thương tiếc, truy tặng hàm Quang Lộc tự khanh.
 
Hai vợ chồng chỉ sinh được một gái tên Uyển La, nhưng mất sớm.
 
Kể từ đó, Nguyệt Đình thủ tiết, nuôi cháu là Phạm Đăng Tiến (con của Phạm Đăng Thiệu) làm thừa tự, nhưng rồi thấy Tiến vô hạnh, bà từ bỏ, dựng từ đường riêng<ref>''Quy Đức công chúa từ đường'' ở thôn Thượng Hai xã Thủy Xuân, thành phố Huế.</ref> ở trước mộ chồng.
 
Năm Tự Đức thứ 20 ([[1876]]), bà được phong ''Quy Đức công chúa''.
 
Năm [[1875]], bà tâu xin được giao cho xã sở tại (Dương Xuân), chọn người coi giữ việc thờ cúng nơi từ đường.
 
Nguyệt Đình mất ngày 22 tháng 3 năm Nhâm Thìn (18 tháng 4 năm 1892) triều [[Thành Thái]], hưởng thọ 68 tuổi, táng chung một chỗ với chồng, thụy ''Cung Thục''.
 
==Tác phẩm==
Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh có để lại ''Nguyệt Đình thi thảo'' (月亭詩草), được [[Tuy Lý Vương]] Miên Trinh đề tựa khen ngợi (dịch):
 
:''Xưa, phần nước Vệ ở Biến phong trong [[kinh Thi]], bài Tái Trì là thơ của phu nhân Hứa Mục công, bài Hà Quảng là thơ của phu nhân Tống Hoàn công, thảy thảy phát ra từ tình cảm mà dừng lại ở lễ nghĩa, cho nên quốc sử khen ngợi và học giả tôn sùng.''
Hàng 58 ⟶ 46:
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
 
==Liên kết ngoài==
 
Hàng 66 ⟶ 55:
[[Thể loại:Nhà thơ Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Huế]]
[[Thể loại:Người nhà Nguyễn]]
[[Thể loại:Công chúa nhà Nguyễn]]
[[Thể loại:Công chúa Việt Nam]]
[[Thể loại:Phụ nữ Việt Nam]]