Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Văn Khôi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
xóa các nguồn tự xuất bản
n →‎Thành Phiên An thất thủ: chính tả, replaced: phù thủng → phù thũng
Dòng 33:
Địa chủ, phú hào các nơi dao động, không dám ủng hộ ông nữa. Tiếp đó, một tướng giỏi của ông là [[Thái Công Triều]] (quê [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên]], nguyên là vệ úy coi vệ biền binh ở Phiên An và là người được Khôi giao quản lĩnh phân nửa [[Nam Kỳ]]) cũng bất ngờ đầu hàng triều đình, khiến lực lượng nổi dậy suy yếu nhanh chóng. Nhân cơ hội này, các tướng nhà Nguyễn nhanh chóng thu phục lại các tỉnh đã mất. Lê Văn Khôi phải rút vào thành Phiên An cố thủ, rồi nhờ các giáo sĩ [[phương Tây]] sang [[Xiêm]] cầu viện. Vua [[Xiêm]] nhân muốn lấn đất Đại Nam nên điều quân sang giúp.
 
Đầu năm [[1834]], Lê Văn Khôi bị bệnh phù thủngthũng, chết ở trong thành, không rõ bao nhiêu tuổi<ref>''Đại Nam chính biên liệt truyện'' ghi Lê Văn Khôi mất [[tháng chạp|tháng Chạp]] năm [[Giáp Ngọ]], tức đầu năm [[1834]] (sách đã dẫn, tr.1033).</ref>. Con trai ông là Lê Văn Cù mới 8 tuổi<ref>Ghi theo ''Đại Nam chính biên liệt truyện'' (tr. 1033). Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế (''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam''. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1992, tr. 392) ghi là ''Lê Văn Câu''. Sách ''Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh'' do TS. Quách Thu Nguyệt chủ biên, ghi ''Lê Văn Cú''. [[Trần Trọng Kim]] (sách đã dẫn) ghi 7 tuổi.</ref> được cử lên thay. Tiền quân [[Nguyễn Văn Trắm]] được lĩnh nhiệm vụ chỉ huy quân lính trong thành.
 
Thành Phiên An cố thủ được tới ngày [[16 tháng 7]] năm [[Ất Mùi]] (tức [[8 tháng 9]] năm [[1835]]), thì bị quân triều đình chia làm 8 mũi, tấn công ồ ạt vào thành. Quân nổi dậy chống cự không nổi, thành thất thủ. Nghĩa quân đưa Lê Văn Toản ([[1827]]-[[1908]]) là con trai Lê Văn Khôi lên thay. Vì cha bị Minh Mạng đàn áp, Lê Văn Toản phải đình chiến, xây ngôi mộ cha. Mười chín năm từ khi Lê Văn Khôi mất, [[Cao Bá Quát]] khởi nghĩa chống chính quyền Minh Mạng.