Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Overlord (1944)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
n →Không quân, lính dù tham gia trận chiến: diễn đạt bằng chữ, replaced: 1 thời gian → một thời gian |
||
Dòng 65:
Cùng ngày hôm đó, các sư đoàn nhảy dù của quân Đồng minh cũng đổ bộ lên Normandie. Nếu như lính nhảy dù Anh thành công trong việc chiếm các cây cầu trên [[sông Orne]] và [[vùng Troarn]] thì [[sư đoàn 101]] của Mỹ phải chịu tổn thất nặng nề khi đổ bộ lên đầm lầy bãi Utah. Sư đoàn không kị 802 của Mỹ cũng nguy khốn không kém. 822 [[vận tải cơ quân sự]] (18 [[binh chủng nhảy dù|lính dù]]/1 chiếc) để đưa được các sư đoàn không kị Mỹ Anh đến trận địa. Những phi cơ này bay ở vận tốc 200 km/giờ và độ cao 320 [[mét]]. Mỗi lính dù phải mang 1 trọng lượng gấp đôi cơ thể. Mỗi máy bay chất đầy [[đạn pháo]] 75 li, [[đạn cối]] 60 li, [[đạn bazooka]]. 500 vận tải cơ này cất cánh từ nhiều sân bay khác nhau của miền nam nước Anh vào đêm 5 tháng 6 và bay ở đội hình tam giác 9 chiếc một, số phi cơ này dự định tiến hành thả dù từ 1 đến 2 giờ sáng ngày 6 tháng 6. Nhưng do mây mù ập đến bất chợt nên đội hình bay bị xáo trộn, nhiều phi cơ bay chệch hướng và thả dù rất thấp gây tử vong cho lính dù rất nhiều ở [[Cotentin]] và các vùng thung lũng ngập nước [[Douve]] và [[Merderet]]. Chỉ có 2 trong số 6 trung đoàn nhảy dù xuống vùng tương đối thuận lợi nên kế hoạch nhảy dù của tấn công bất ngờ quân Đức đã không được kết quả như mong muốn.
Nếu như việc nhảy dù không mấy thành công thì việc đổ bộ tại 4 trong 5 bãi tiến hành tương đối khá tốt. Quân Đức hoàn toàn bất ngờ về việc quân Đồng minh đổ bộ lúc nửa triều nên không thực hiện được chiến thuật tác xạ đã bàn giao trước đó. Quân Đức phải mất
Hoạt động của ba sư đoàn dù, sư đoàn 6 không kị Anh, sư đoàn 82 và sư đoàn 101 không kị Mỹ - cũng đã phần nào tạo thuận lợi cho 4 sư đoàn bộ binh Mỹ tại các đụn cát giữa [[Vareville]] và [[Madeleine]], phía nam Cotentin. Các đơn vị đã có thể tiến dọc theo những lộ trình đã được vạch sẵn và giải toả mọi mìn bẫy. Các đoàn quân này ngay trong chiều ngày 6 tháng 6 1944 đã đến được khu vực [[làng Sainte-Mere-Eglise]] mà mới sáng hôm đó là điểm nhảy dù của sư đoàn không kị 82 của Mỹ. Trong lúc đó, quân Đức chuẩn bị cho 1 cuộc phản công do đó quân Mỹ đổ bộ lên bãi Omaha đã gặp phải sự kháng cự mãnh liệt của quân Đức. Những tràng đại liên và pháo của sư đoàn bộ binh 352 của Đức khiến quân Mỹ gặp rất nhiều tổn thất trước khi đến được [[Isigny]] ở phía Tây và liên lạc với quân Anh ở hướng Đông. Cơn tắm máu ở bãi Omaha không chỉ do sức kháng cự của quân Đức mà còn do sai lầm của quân Đồng Minh khi không sử dụng các chiến xa vô hiệu hóa các công sự phòng thủ trên bãi. Ngược lại, quân Anh và Canada lại sử dụng triệt để các chiến xa phá mìn trong khu vực [[bãi Gold]] và [[bãi Juno]]. Quân Canada nhanh chóng giải phóng [[Bayeux]] và mãi đến chiều tối Đức mới phản công lần nữa bằng việc đưa sư đoàn thiết xa [[Panzer 21]] ra trận. Đến chiều ngày 8 tháng 6 thì đầu cầu đổ bộ đã hình thành rõ ràng và vững chắc, quân Đồng minh đã bắt liên lạc được với nhau giữa năm bãi đổ bộ, chiếm đóng 56 km bờ biển với chiều sâu từ 8 đến 16 km. Chiến dịch Overlord xem như thành công và quân Đức quá bất ngờ nên trở tay không kịp. Gần 1 ngày sau, quân Đức mới tổ chức phòng ngự và chuyển quân tiếp viện đến gần bờ biển với hi vọng đánh bật quân Đồng Minh ra khỏi bờ biển. Nhưng quân Đức phải xung trận trong điều kiện hoàn toàn bất lợi: không quân Đồng minh đã kiểm soát toàn bộ bầu trời, quân Đức phải sử dụng địa hình Normandie để tổ chức phòng ngự. Trận chiến Normandie phải tiếp tục kéo dài vì trong suốt tháng 6 quân Đồng minh chỉ lo củng cố đầu cầu đổ bộ hơn là tiếp tục tấn công.
|