Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Văn Giao”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Cuộc đời và sự nghiệp: diễn đạt bằng chữ, replaced: lần thứ 2 → lần thứ hai
Dòng 6:
Ông đậu Tú tài khoa [[Tân Mão]] 1831. Năm [[Giáp Ngọ]] [[niên hiệu]] [[Minh Mạng]] thứ 15 [[1834]], đi đỗ Cử nhân ([[Hương cống]]), nhưng do cuối quyển có chữ viết phạm trường quy nên xét lại bị đánh hỏng, bị án "Chung thân bất đắc ứng thi" (suốt đời không được đi thi). Trong suốt 17 năm liền sau đó không được đi thi, ông về quê dạy học. Số người theo học rất đông, thành đạt nhiều.
 
Mãi đến năm [[Nhâm Tý]] [[1852]], niên hiệu [[Tự Đức]] thứ 5, ông mới được ân xá. Ông thi lần thứ 2hai và đỗ [[Giải nguyên]] ở trường Nghệ. Năm sau ông dự khoa thi [[Quý Sửu]] niên hiệu Tự Đức năm thứ 6 (1853), đậu [[Hội nguyên]]. Vào thi Đình, ông được chấm đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ tam danh (tức [[Thám hoa]]) khi đã 42 tuổi.
 
Sau khi thi đỗ, tháng 11 năm đó, ông được bổ thụ Hàn lâm viện Trước tác, nhận chức vụ Hành tẩu ở Nội các. Tháng 8 năm [[Ất Sửu]] 1855, được thăng thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ. Năm [[Mậu Ngọ]] 1858, được thăng nhiệm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ kiêm chức Hành tẩu Nội các. Tháng 6 năm Kỷ Mùi 1859, thăng thực thụ Thị giảng học sĩ, tháng 1 năm [[Nhâm Tuất]] 1862, thăng thụ Thị độc học sĩ, vẫn kiêm chức Tham biện Nội các.