Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Văn Lầu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n Đã lùi lại sửa đổi của 115.77.163.111 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Én bạc
Dòng 4:
|image_size=280
|birth_date={{Birth date|1892|12|22}}
|birth_place =Thuận Mỹ, huyện [[Vàm Cỏ]], tỉnh [[Long An]], Việt Nam
|deathplace=
|death_date={{Death date and age|1976|8|13|1892|12|22}}
Dòng 12:
|children = 7 con (5 trai, 2 gái)
|parents = Cao Văn Giỏi
}}
|country={{VIE}}}}
'''Cao Văn Lầu''' thường gọi '''Sáu Lầu''', ([[22 tháng 12]] năm [[1892]]<ref>Ghi theo bia mộ (ảnh). Có nguồn như: ''Từ điển nhân vật lịch sử'' (tr. 74), [http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/nhac/lang-nhac/cao-van-lau-co-phai-ong-to-nganh-cai-luong-1880176.html], ghi ông sinh năm [[1892]].</ref> - [[13 tháng 8]] năm [[1976]]) là một nhạc sĩ và là tác giả bài "[[Dạ cổ hoài lang]]", một bài ca độc đáo và nổi tiếng nhất trong nghệ thuật [[cải lương]] [[Việt Nam]].
 
Dòng 19:
'''Cao Văn Lầu''' sinh ra tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sát nhập với làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện [[Vàm Cỏ]], tỉnh [[Long An]].
 
Khi Cao Văn Lầu vừa tròn 4bốn tuổi (năm [[1896]]), cha là Chín Giỏi (tên thật là Cao Văn Giỏi, [[1860]]-[[1938]]) vì nghèo, vì bị áp bức nên đã cùng vợ và 6sáu đứa con nhỏ xuống ghe, tìm đất khác sinh sống.
 
Buổi đầu, ông Chín Giỏi đến tá túc trên đất của một người bà con ở Gia Hội ([[Bạc Liêu]]). Sau 9 tháng đi làm mướn cật lực mà không đủ ăn, gia đình ông lại phải dời sang Xà Phiên (nay thuộc [[Long Mỹ]], tỉnh [[Hậu Giang]]), khẩn hoang làm ruộng.
 
Khoảng 1một năm sau, hơn 40 công đất, nhờ khó nhọc mới có được, bị địa chủ chiếm lấy. Nhờ người giới thiệu, gia đình ông Chín Giỏi dọn về Họng Chàng Bè ([[Giá Rai]], [[Bạc Liêu]]) để tiếp tục khẩn hoang, nhưng rồi số đất này về sau cũng về tay người khác.
 
Xót cảnh trắng tay của ông Giỏi, hương sư Chơn ở làng Vĩnh Lợi tổng Thạnh Hòa, cho ông cất một căn chòi lá ở trên đất công điền gần chùa Vĩnh Phước An (nay thuộc phường 2, thị xã [[Bạc Liêu]]). Ở đó, vợ chồng ông và các con phải đi làm thuê, đi câu để chạy ăn từng bữa.
Dòng 31:
Năm [[1903]], nhờ cha đến xin, Cao Văn Lầu được phép trở về nhà để học chữ [[Quốc ngữ]]. Nhưng chỉ học đến "lớp nhì năm thứ hai" (''Cours moyen 2e année'') tức lớp 4 ngày nay, thì ông Lầu phải thôi học vì nhà gặp thêm cảnh khó: anh đi ở rể, chị lấy chồng, cha già yếu... Vậy là, năm 17 tuổi, Cao Văn Lầu phải thay cha và anh chị đi làm những việc nặng nhọc để nuôi gia đình.
 
Lúc bấy giờ tại xóm Rạch Ông Bổn có 1một thầy đàn nổi tiếng tên Lê Tài Khí, tục gọi Hai Khị hay Nhạc Khị. Ông thầy này bị mù, cả hai mắt thêm có tật ở chân <ref>Theo Trần Đức Thuận. Học giả [[Vương Hồng Sển]] nói ông có tật ở tay (sách ghi ở mục tài liệu).</ref>, nhưng ngón đàn của ông thật điêu luyện<ref>Trong ''Hồi ký 50 năm mê hát'', Ông [[Vương Hồng Sển]] cho biết: "Nếu phải kể công đầu, đáng làm hậu tổ cải lương, đó là ông Hai Khị ở Bạc Liêu. Nghe đâu ông sống lối năm [[1915]]...Ông đau cổ xạ, ngón tay co rút và ngo ngoe rất khó. Thế mà ông có tài riêng, không ai bắt chước được. Ai muốn thử tài cứ đến nhà, ban đầu ông giở mùng cho xem, chỉ trống, kèn, chụp chõa trơ trơ ở trong ấy. Thế rồi khách ra ngồi salon, ông Khị chun vô mùng, một "mình ên", rồi bỗng nghe trọn bộ cổ nhạc khua động có tiết tấu nhịp nhàng y như có cả bốn năm người hòa tấu: trống xổ, kèn thổi, đờn kéo ò e, chụp chõa lùng tùng xòa...Không ai biết ông làm cách nào mà được vậy, quả là diệu thuật" (sách ghi ở mục tài liệu, tr. 46).</ref>.
 
Năm [[1908]], Cao Văn Lầu nhờ cha dẫn đến thầy Hai Khị để xin học đàn mỗi đêm. Nhờ yêu thích và siêng năng, ông mau chóng sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như [[đàn tranh]], cò, kìm, trống lễ; và trở thành một nhạc sĩ nồng cốt trong ban cổ nhạc của thầy.
 
Năm [[1912]], ông bắt đầu đi hát với Sáu Thìn và cô Phấn với bài Tứ đại oán ''Bùi Kiệm thi rớt''.