Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Minh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n fixes, replaced: [[File: → [[Tập tin: (13), cite → chú thích (28)
n Đã lùi lại sửa đổi của Trantrongnhan100YHbot (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Nguyen Xuan Quynh BKA
Dòng 63:
|s3 = |p2 = }}
{{Lịch sử Trung Quốc}}
'''Nhà Minh''' ([[chữ Hán]]: 明朝, [[Hán Việt]]: ''Minh triều''; [[23 tháng 1]], năm [[1368]] - [[25 tháng 4]], năm [[1644]] {{NoteTag|giới sử học thông thường lấy năm 1644 là năm triều Minh vong quốc, Nam Minh đến năm 1662 mới diệt vong, Minh Trịnh diệt vong vào năm 1683<ref name="明太祖的開國規模"/>.}}) là triều đại cuối cùng do người Hán kiến lập trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Năm [[1368]], Chu Nguyên Chương sau khi tiêu diệt các thế lực quần hùng, tại phủ Ứng Thiên [[đăng cơ]], [[quốc hiệu]] '''Đại Minh'''<ref name="国号">明[[朱國禎]]《[[湧幢小品]]》卷二「國號」條:“[[國號]]上加大字,始於[[元朝|胡元]],我朝因之。……其言[[漢朝|大漢]]、[[唐朝|大唐]]、[[宋朝|大宋]]者,乃臣子及外夷尊稱之詞。”</ref>, do [[hoàng thất]] [[họ Chu]], nên còn được gọi là '''Chu Minh'''<ref name="明太祖的開國規模" />. Đầu thời kiến quốc, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương định đô tại phủ Ứng Thiên (nay là [[Nam Kinh]]), đến năm Vĩnh Lạc thứ 19 (1421), [[Minh Thành Tổ]] Chu Đệ dời đô đến phủ Thuận Thiên (nay là [[Bắc Kinh]]), kinh sư cũ đổi thành [[Nam Kinh]]<ref name="明太祖的開國規模" />.{{Contains Chinese text}}Thời kỳ đầu triều Minh, qua chính sách nghỉ ngơi lại sức của Chu Nguyên Chương, quốc lực triều Minh khôi phục nhanh chóng, sử xưng Hồng Vũ chi trị<ref name="简介">{{chú thíchcite web|title=明朝|url=http://www.ccnt.com.cn/china/history/history/ming/ming.htm|publisher=中华文化信息网|accessdate=2014-02-13|language=中文}}</ref>. Đến thời kỳ Minh Thành Tổ Chu Đệ, quốc thế đạt đỉnh, những năm Vĩnh Lạc khoa trương lãnh thổ, còn phái khiển [[Trịnh Hòa]] bảy lần hạ Tây Dương, học giả hiện đại gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế. Sau đó, thời kỳ [[Minh Nhân Tông|Nhân Tông]] và [[Minh Tuyên Tông|Tuyên Tông]] cũng là thời hưng thịnh, sử xưng Nhân Tuyên chi trị. Tuy nhiên, thời kỳ [[Minh Anh Tông|Anh Tông]] và [[Minh Đại Tông|Cảnh Thái Đế]], trải qua [[sự biến Thổ Mộc bảo]], quốc lực trung suy<ref name="简介"/>. Sau khi [[Minh Thế Tông|Thế Tông]] đăng cơ, phát sinh tranh chấp [[Đại lễ nghị]], sau khi thanh trừ thế lực hoạn quan và quyền thần hoàng đế tổng quản triều cương, thực hành Gia Tĩnh tân chính, song sau này không quan tâm triều chính. Sau khi Minh Thế Tông từ trần, trải qua Long Khánh tân chính và Vạn Lịch trung hưng, quốc lực được khôi phục. Trung kỳ thời [[Minh Thần Tông|Thần Tông]], hoàng đế dần lơ đãng triều chính, sử xưng Vạn Lịch đãi chính, bắt đầu chính trị hỗn loạn thời vãn Minh. Thời [[Minh Hi Tông|Hi Tông]], đám hoạn quan làm loạn triều cương, sau khi [[Minh Tư Tông|Tư Tông]] kế vị thì bị diệt trừ. Tuy nhiên, do Tư Tông có quyết sách sai lầm, cùng với nội ưu ngoại hoạn, triều Minh cuối cùng mất vào tay [[Lý Tự Thành]] vào năm 1644. Sau đó, chính quyền Nam Minh rồi Minh Trịnh tiếp tục tồn tại trong mấy thập niên, kết thúc khi [[triều Thanh]] chiếm lĩnh Đài Loan<ref name="明太祖的開國規模"/>.
 
Lãnh thổ triều Minh bao quát khu vực phía nam Vạn Lý Trường Thành và tỉnh [[Liêu Ninh]] hiện nay. Trong những năm đầu, quyền tông chủ của nhà Minh mở rộng đến [[biển Nhật Bản]], [[Dãy núi Stanovoy|Ngoại Hưng An Lĩnh]] và lưu vực [[sông Amur|Hắc Long Giang]], sau đó suy giảm còn khu vực [[Liêu Hà]]. Triều Minh từng đặt cơ cấu ki mi tại Đông Bắc Trung Quốc ngày nay, đông bộ [[Tân Cương]] và [[Tây Tạng]].<ref>《明史·志第十六》:“计明初封略,东起朝鲜,西据吐蕃,南包安南,北距大碛,东西一万一千七百五十里,南北一万零九百四里。自成祖弃大宁,徙东胜,宣宗迁开平於独石,世宗时复弃哈密、河套,则东起辽海,西至嘉峪,南至琼、崖,北抵云、朔,东西万余里,南北万里。其声教所讫,岁时纳贽,而非命吏置籍,侯尉羁属者,不在此数。呜呼盛矣!“</ref> Tuy nhiên, tồn tại tranh nghị lớn về vấn đề triều Minh thực tế thống trị Tây Tạng. Thời kỳ Minh Thành Tổ, triều Minh từng chinh phục và thống trị An Nam (nay là miền bắc Việt Nam) trong một thời gian ngắn<ref name="明太祖的開國規模"/>. Căn cứ theo "Minh thực lục", nhân khẩu triều Minh đạt đỉnh vào năm Thành Hóa thứ 15 (1479) với hơn 70 triệu người<ref>《明宪宗实录》:是岁天下户九百二十一万六百九十户,口七千一百八十五万一百三十二口。</ref>, song có nhiều học giả cho rằng đương thời tồn tại giấu giếm hộ khẩu với số lượng lớn, do đó nhận định đỉnh cao nhân khẩu thực tế là trên 100 triệu<ref>[http://www.saohua.com/shuku/History/06%E3%80%8A%E6%AD%A3%E8%AF%B4%E6%98%8E%E6%9C%9D%E4%B8%89%E7%99%BE%E5%B9%B4%E3%80%8B%E5%AD%99%E6%99%AF%E5%B3%B0-20%E6%9D%8E%E9%87%91%E7%8E%89-20%E8%91%97/%E6%AD%A3%E8%AF%B4%E6%98%8E%E6%9C%9D%E4%B8%89%E7%99%BE%E5%B9%B4101.htm 《正说明朝三百年》孙景峰李金玉著]</ref>. Thời Minh, thủ công nghiệp và kinh tế thương phẩm phồn vinh, xuất hiện tập trấn thương nghiệp và manh nha tư bản chủ nghĩa, văn hóa nghệ thuật hiện ra xu thế thế tục hóa<ref>{{chú thíchcite book|author=张宏杰|title=《大明王朝的七张面孔》|year=2013|publisher=天津人民出版社|location=天津|ISBN=9787201080949}}</ref>.
 
== Lịch sử ==
=== Kiến quốc và thống nhất ===
Cuối thời Nguyên, quan viên tham ô, quý tộc hủ hóa, triều chính hủ bại. Nhằm loại trừ thâm hụt ngân sách, triều đình tăng nặng thu thuế, đồng thời in tùy tiện lượng lớn tiền mới "Chí chính bảo sao". Kết quả gây nên lạm phát, cộng thêm các loại thiên tai diễn ra thường xuyên khiến dân chúng khó mà sinh tồn. Năm 1351, [[Nguyên Thuận Đế]] phái Giả Lỗ trị lý [[Hoàng Hà]], trưng dụng 20 vạn người từ các địa phương. Tháng năm cùng năm, tín đồ [[Bạch Liên giáo]] là [[Hàn Sơn Đồng]] và [[Lưu Phúc Thông]] kích động dân chúng chịu nhiều tổn thất do thiên tai và bị đốc công ngược đãi tiến hành phản Nguyên khởi sự. Họ lập nên [[Quân Khăn Đỏ]], hay Hồng Cân quân, chiếm cứ các khu vực Hà Nam và An Huy<ref name="建國與統一"/>. Quân Khăn Đỏ cùng nghĩa quân các địa phương liên tiếp khởi sự, thế lực khuếch trương đến khu vực Hoa Trung, Hoa Nam. Sang năm 1352, [[Quách Tử Hưng]] thuộc Quân Khăn Đỏ tập hợp dân chúng khởi nghĩa, công chiếm Hào Châu (nay là [[Phượng Dương]], An Huy). Không lâu sau, một người Phượng Dương xuất thân nông dân là Chu Nguyên Chương đi theo Quách Tử Hưng, nhiều lần lập chiến công, được Quách Tử Hưng trọng thị và tín nhiệm. Sau đó, Chu Nguyên Chương rời Hào Châu, phát triển thế lực riêng<ref name="建國與統一">{{chú thíchcite book|author=姜公韜|title=《中國通史 明清史》|chapter=第一章 元明之際|page=第9頁-第16頁|isbn=9787510800627|publisher=九州出版社|date=2010-1}}</ref><ref>傅海波&崔瑞德《劍橋中國遼西夏金元史》, 中國社會科學出版社,2006年,第668-671頁</ref>.
 
Năm 1356, Chu Nguyên Chương suất binh chiếm lĩnh [[Kim Lăng]] (nay là [[Nam Kinh]], [[Giang Tô]]), đổi thành Ứng Thiên phủ, đồng thời chiếm cứ một số địa điểm quân sự trọng yếu nằm quanh đó. Chu Nguyên Chương chấp thuận kiến nghị "cao trúc tường, quảng tích lương, hoãn xưng vương" của mưu sĩ [[Lý Thiện Trường]], trải qua vài năm nỗ lực, thực lực quân sự và kinh tế nhanh chóng lớn mạnh. Năm 1360, Chu Nguyên Chương và một thủ lĩnh khởi nghĩa khác là [[Trần Hữu Lượng]] tiến hành giao chiến tại Long Loan thuộc tây bắc Tập Khánh, thế lực Trần Hữu Lượng đại bại và phải đào thoát đến Giang Châu (nay thuộc Cửu Giang, Giang Tây). Năm 1363, thông qua [[trận hồ Bà Dương|Thủy chiến tại hồ Bà Dương]], thế lực Trần Hữu Lượng về cơ bản bị tiêu diệt. Năm 1367, Chu Nguyên Chương tự xưng Ngô Vương, suất quân chiếm lĩnh Bình Giang (nay là [[Tô Châu]], Giang Tô), diệt một thủ lĩnh khởi nghĩa lớn mạnh khác là [[Trương Sĩ Thành]]. Cùng năm, Chu Nguyên Chương tiêu diệt [[Phương Quốc Trân]] cát cứ tại duyên hải [[Chiết Giang]]<ref name="建國與統一"/>.
Dòng 76:
 
=== Hoàng quyền tập trung và Kiến Văn tước phiên ===
[[Tập tinFile:Hongwu1.jpg|thumb|left|150px|[[Chu Nguyên Chương]] lật đổ triều Nguyên, kiến lập triều Minh.|thế=Chu Nguyên Chương lật đổ triều Nguyên, kiến lập triều Minh]]
Sau khi bình định thiên hạ, Minh Thái Tổ đại phong công thần, song do tính cách đa nghi nên ông có nghi kị với những công thần này. Minh Thái Tổ dựa vào đại án [[Hồ Duy Dung]] và [[Lam Ngọc]], gần như đem toàn bộ công thần diệt trừ<ref name="洪武專政">《明史:一個多重性格的時代》〈第一篇 第二章 開國制度與政治整肅〉. 第20頁-第45頁.</ref>. Thừa tướng Hồ Duy Dung rất được Chu Nguyên Chương sủng tín, song ngày càng hống hách, tấu chương đại sự trong triều trước tiên phải qua tay ông. Năm 1380, Minh Thái Tổ lấy tội danh chuyên quyền làm càn để giết Hồ Duy Dung cùng những người khác như Ngự sử đại phu Trần Ninh. Năm 1390, có người tố cáo [[Lý Thiện Trường]] và Hồ Duy Dung có quan hệ mật thiết, Lý Thiện Trường do đó bị ban chết. Tổng cộng, số người liên lụy là hơn ba vạn người, sử xưng "[[Hồ Duy Dung án]]"<ref name="洪武專政"/>. Sau đó, Minh Thái Tổ lấy tội danh ngông cuồng hống hách để giết Đại tướng quân Lam Ngọc, hơn một vạn năm nghìn người mất mạng trong tru di diệt tộc, sử xưng "[[Lam Ngọc án]]". Cùng với [[Không ấn án]] và [[Quách Hoài án]], gọi chung là [[Minh sơ tứ đại án]]. Đến lúc này, ngoại trừ [[Thang Hòa]] và [[Cảnh Bỉnh Văn]], gần như toàn bộ công thần đã bị giết. Minh Thái Tổ thông qua một loạt phương thức như đả kích công thần, cho đặc vụ đi giám thị mà tăng cường hoàng quyền, khiến trình độ chuyên chế của hoàng đế triều Minh vượt trên các triều đại trước đó tại Trung Quốc<ref name="洪武專政"/>.
 
Dòng 86:
 
=== Vĩnh Lạc thịnh thế và Nhân-Tuyên chi trị===
[[Tập tinFile:Anonymous-Ming Chengzu.jpg|thumb|left|150px|Minh Thành Tổ Chu Lệ phát động Tĩnh Nan chi dịch đoạt vị, đồng thời khai sáng Vĩnh Lạc thịnh thế.]]
Sau Hồng Vũ chi trị, Vĩnh Lạc thịnh thế thời Thành Tổ và Nhân-Tuyên chi trị thời Nhân Tông và Minh Tông là một ttrong các thời kỳ hưng thịnh của triều Minh. Thời kỳ Minh Thành Tổ, quân sự hưng thịnh, trước tiên [[Chiến tranh Minh - Đại Ngu|tiến công An Nam]], [[Bắc thuộc lần 4|đưa An Nam vào bản đồ]] triều Minh, thiết lập Giao Chỉ bố chính ty. Sau đó, Minh Thành Tổ năm lần tự dẫn quân vào Mạc Bắc tiến công Thát Đát và Ngõa Lạt (hai thế lực Mông Cổ sau khi Bắc Nguyên phân liệt). Minh Thành Tổ sách phong Ngõa Lạt tam vương, khiến họ đối lập với Thát Đát, chờ đến sau khi Ngõa Lạt hưng thịnh lại trợ giúp Thát Đát thảo phạt Ngõa Lạt, không để cho bên nào chiếm ưu thế<ref name="制度的更張與勢力的發揚"/>. Đồng thời, Minh Thành Tổ loại bỏ Đại Ninh đô ty, đem Ninh vương [[Chu Quyền]] nội thiên Nam Xương, trao cho ba vệ sở Ngột Lương Cáp Mông Cổ là Đóa Nhan, Thái Ninh và Phúc Dư quyền tự trị, song không chấp thuận cho người tam vệ Mông Cổ này dời về phía nam đến khu vực Đại Ninh chăn thả. Minh Thành Tổ tiến hành trấn áp Ngột Lương Cáp Mông Cổ vào năm 1406 và 1422, nhằm duy trì ổn định trong khu vực<ref>蔡石山著,江政宽译,《永乐大帝:一个中国帝王的精神肖像》,中华书局,2009年11月,ISBN 978-7-101-06977-8,第八章、永乐和蒙古人,第145-146页</ref>. Nhằm an phủ các bộ lạc [[Nữ Chân]] ở phía đông bắc, Minh Thành Tổ đặt vệ sở tại [[Hải Tây Nữ Chân]] (thượng du sông [[Tùng Hoa]]) và [[Kiến Châu Nữ Chân]] (giữa sông Tùng Hoa, [[sông Mẫu Đơn]]) đã quy phụ, đồng thời phái [[Diệc Thất Cáp]] an phủ [[Dã Nhân Nữ Chân]] tại hạ du [[sông Amur|Hắc Long Giang]]. Năm 1407, Diệc Thất Cáp tại khu vực Nô Nhi Can bờ đông hạ du Hắc Long Giang đặt Nô Nhi Can đô ty, khuếch trương cương vực phía đông Đại Minh. Năm 1413, Diệc Thất Cáp thị sát [[Sakhalin|đảo Khố Hiệt]] (Sakhalin), tuyên bố quyền tông chủ của triều Minh với khu vực này<ref name="《永寧寺記》">{{chú thíchCite book |title =《[[永寧寺記]]》|quote=永樂九年春特遣內官亦失哈等率官軍一千餘人、巨船二十五艘復至其國,開設[[奴兒干都司]]。昔遼、金疇民安故業,皆相慶曰:「□□今日復見而服矣!」遂上□朝□□□都司,而餘人上授以官爵印信,賜以衣服,賞以布、鈔,大賚而還。依土立興衛所,收集舊部人民,使之自相統屬。}}</ref>. Minh Thành Tổ thay đổi sách lược ngoại giao bế quan tự thủ của Minh Thái Tổ, từ năm 1405 bắt đầu phái hoạn quan [[Trịnh Hòa]] hạ Tây Dương, giao thiệp với các quốc gia, tuyên thị uy đức và kiến lập thể chế triều cống, cũng có thuyết cho là nhằm bao vây ngăn chặn [[Nhà Timur|Đế quốc Timur]] tại Tây Á<ref name="制度的更張與勢力的發揚">{{chú thíchcite book|author=姜公韜|title=《中國通史·明清史》|chapter=第三章 制度的更張與勢力的發揚|page=第33頁-第49頁|isbn=9787510800627|publisher=九州出版社|date=2010-1}}</ref>. Trịnh Hòa hạ Tây Dương tổng cộng bảy lần, sáu lần trước trong những năm Vĩnh Lạc và do Minh Thành Tổ phái khiển, thuyền đội Trịnh Hòa ghi dấu trên khắp khu vực Đông Nam Á và Nam Á, còn lập căn cứ tại [[Melaka (bang)|Malacca]]. Quy mô của thuyền đội là chưa từng có trước đó, đi xa nhất đến khu vực [[Somali]] tại Đông Phi, khuếch đại sức ảnh hưởng của triều Minh đối với các quốc gia Đông Nam Á và ven Ấn Độ Dương.<ref name="永樂與仁宣之治"/>.
 
Trên phương diện văn trị, Minh Thành Tổ cho biên soạn "[[Vĩnh Lạc đại điển]]" có quy mô lớn, công trình này có 22.877 quyển, số chữ ước tính có hơn 370 triệu. Căn cứ theo ghi chép, thời Minh chỉ có Hiếu Tông và Thế Tông duyệt đại điển<ref>《清代輯佚研究》,第39頁</ref>. Ngoài ra, Minh Thành Tổ cũng không cho sao chép khắc in "Vĩnh Lạc đại điển", quyết định chỉ chế tác một phần bản sao, đến năm 1409 thì hoàn thành<ref>蔡石山著,江政宽译,《永乐大帝:一个中国帝王的精神肖像》,中华书局,2009年11月,ISBN 978-7-101-06977-8,第七章、文皇帝,第123-124页</ref>. Năm 1405, Minh Thành Tổ đổi Bắc Bình thành Bắc Kinh, gọi là 'hành tại', đồng thời thiết lập các nha môn như Bắc Bình quốc tử giám. Năm 1409, Minh Thành Tổ tuần thị Bắc Kinh, tại Bắc Kinh thiết lập lục bộ và đô sát viện, đồng thời thiết lập lăng tẩm cho [[Nhân Hiếu Văn hoàng hậu|Từ hoàng hậu]] tại Bắc Kinh, hiển thị dấu hiệu thiên đô. Trải qua mười mấy năm quy hoạch, Bắc Kinh sơ bộ đạt được phồn vinh. Năm 1416, Minh Thành Tổ công bố ý kiến thiên đô, nhận được tán đồng, năm sau bắt đầu kiến thiết Bắc Kinh trên quy mô lớn. Năm 1420, tuyên cáo hoàn thành công trình, năm sau thiên đô. Vì trong những năm Vĩnh Lạc thiên hạ đại trị, đồng thời lại tận lực khai thác giao lưu hải ngoại, do vậy có học giả gọi giai đoạn này là Vĩnh Lạc thịnh thế. Tuy nhiên, Minh Thành Tổ cho giết nhiều người bất đồng quan điểm, như các cựu thần [[Hoàng Tử Trừng]], [[Tề Thái]] đều bị giết<ref>{{chú thíchcite book|author=时涛,宋岩|title=《图说中国历代君主帝王276——大明王朝简介》|year=2009|publisher=中国长安出版社|location=中国北京|isbn=9787510700873|language=中文}}</ref>.
 
Sau khi Minh Thành Tổ từ trần, trưởng tử là Chu Cao Sí tức vị, tức Minh Nhân Tông, niên hiệu Hồng Hi. Minh Nhân Tông tuổi đã cao, trị vì được gần một năm thì từ trần. Ông thống trị theo thiên hướng bảo thủ, ủy nhiệm các hiền thần như "Tam Dương" ([[Dương Sĩ Kỳ]], [[Dương Vinh]], [[Dương Phổ (nhà Minh)|Dương Phổ]]) phụ tá triều chính, đình chỉ Trịnh Hòa hạ Tây Dương và chiến tranh đối ngoại để tích lũy dân lực, khích lệ sản xuất, độ lượng trong xét xử, nỗ lực thi hành tiết kiệm. Sau khi Minh Nhân Tông từ trần, trưởng tử là Chu Chiêm Cơ tức vị, là Minh Tuyên Tông, niên hiệu Tuyên Đức. Nhân Tông về cơ bản kế thừa phương châm của phụ thân, thực thi đức chính trị quốc, đồng thời cho tiến hành hạ Tây Dương lần cuối. Minh Tuyên Tông cực kỳ yêu thích mĩ thuật, có tác phẩm truyền thế. Tuy nhiên, trong thời gian ông chấp chính cũng có những điều tệ hại. Do Minh Tuyên Tông thích nuôi [[dế mèn]] (tên Hán cổ là "xúc chức"), nhiều quan lại do vậy tranh nhau nịnh hót, nên ông bị gọi là "Xúc Chức thiên tử". Đồng thời, Minh Tuyên Tông đả phá quy củ hoạn quan không được can chính do Thái Tổ truyền lại, một số thái giám như [[Vương Chấn (hoạn quan)|Vương Chấn]] bắt đầu can chính, là mầm họa của thái giám chuyên quyền thời Minh Anh Tông. Năm 1435, Minh Tuyên Tông từ trần, con là Chu Kỳ Trấn kế vị khi mới chín tuổi, tức Minh Anh Tông, niên hiệu Chính Thống<ref name="永樂與仁宣之治"/>.
 
=== Thổ Mộc chi biến và Hoằng Trị trung hưng===
[[Tập tinFile:Yu Qian.jpg|thumb|140px|[[Vu Khiêm]] đánh lui quân Ngõa Lạt của Dã Tiên, bảo vệ vững chắc Bắc Kinh.]]
Minh Anh Tông từ nhỏ đã sủng tín hoạn quan [[Vương Chấn (hoạn quan)|Vương Chấn]], khởi đầu hành vi hoạn quan chuyên quyền nghiêm trọng của triều Minh. Năm 1442, người hạn chế quyền thế của Vương Chấn là [[Thành Hiếu Chiêu hoàng hậu|Trương thái hoàng thái hậu]] từ trần<ref>《明通鑑·卷22》:「(張太皇太后言)皇帝年幼,岂知此辈自古祸人家国?我听帝暨诸大臣留振,此后不得令干国事也。」</ref>, đương thời Minh Anh Tông gần 15 tuổi, Vương Chấn càng thêm chuyên quyền. Sau khi nguyên lão trọng thần "Tam Dương" từ trần, Vương Chấn chuyên quyền hống hách, triệt hạ biển sắt ghi sắc mệnh cấm chỉ hoạn quan can chính do Thái Tổ lưu lại, Minh Anh Tông đối với nhân vật này càng tín nhiệm hơn<ref>《明史紀事本末·卷29》:「朕自在春宫,至登大位,几二十年。尔夙夜在侧,寝食弗违,保护赞辅,克尽乃心,正言忠告,裨益实多。」</ref>.
 
Dòng 101:
Sau khi tin tức từ Thổ Mộc bảo truyền đến Bắc Kinh, triều đình hỗn loạn. Một số đại thần yêu cầu thiên đô đến Nam Kinh Ứng Thiên phủ song bị Binh bộ thị lang [[Vu Khiêm]] bác bỏ. Cùng năm, đại thần tôn em của Anh Tông là Chu Kỳ Ngọc tức vị, tức Minh Cảnh Đế (hay [[Minh Đại Tông]]), niên hiệu Cảnh Thái. Vu Khiêm được thăng làm Binh bộ thương thư, chỉnh đốn biên phòng tích cực chuẩn bị chiến tranh, đồng thời quyết định kiên quyết bảo vệ Bắc Kinh, các lộ quân cần vương từ các địa phương liên tiếp tiến đến. Tháng mười cùng năm, quân Ngõa Lạt đến sát bên thành Bắc Kinh. Vu Khiêm lãnh đạo các lộ quân Minh kháng cự, Dã Tiên suất quân triệt thoái<ref>《明史·卷170·于謙傳》:「臨陣將不顧軍先退者,斬其將;軍不顧將先退者,後隊斬前隊;敢違軍令者,格殺勿論。」</ref>. Triều Minh giành thắng lợi trong trận bảo vệ Bắc Kinh, Vu Khiêm phản bác các ý kiến khác, tăng cường củng cố quốc phòng, cự tuyệt cầu hòa, đến năm sau liên tiếp đánh lui quân Ngõa Lạt nhiều lần xâm phạm<ref name="土木之變"/>.
 
Dã Tiên nhận thấy giữ Minh Anh Tông đã thành vô nghĩa, vào năm 1450 cho phóng thích ông. Tuy nhiên, do vấn đề hoàng quyền nên Minh Đại Tông không muốn tiếp nhận Minh Anh Tông, ban đầu không muốn khiển sứ nghênh giá, rồi giam lỏng Minh Anh Tông trong Nam cung, đồng thời phế hoàng thái tử Chu Kiến Thâm (con của Minh Anh Tông), lập con mình là Chu Kiến Tế làm thái tử. Không lâu sau, Kiến Tế bệnh mất, Đại Tông không còn con trai song do dự không muốn tái lập Chu Kiến Thâm làm thái tử; huynh đệ Anh Tông và Đại Tông do đó đối lập nghiêm trọng<ref>{{chú thíchcite book|author=沈一民|title=《盛世中国·明朝卷·土木之变》|year=2009|publisher=华艺出版社|isbn=9787802520509|coauthors=冯雪飞|language=中文}}</ref>.
 
[[Tập tinFile:Hongzhi.jpg|thumb|left|140px|Minh Hiếu Tông Chu Hữu Đường trung hưng triều Minh.]]
Năm 1457, đám [[Thạch Hanh]], [[Từ Hữu Trinh]] liên minh nhằm phục vị cho Minh Anh Tông, họ thừa cơ Minh Đại Tông mắc trọng bệnh mà phát động binh biến. Từ Hữu Trinh suất quân công nhập Tử Cấm Thành, đám Thạch Hanh chiếm lĩnh Đông Hoa Môn, lập Minh Anh Tông tại Phụng Thiên điện, cải nguyên Thiên Thuận. Họ giam giữ Minh Đại Tông, bắt giết Vu Khiêm và Đại học sĩ [[Vương Văn]], sử xưng [[Đoạt Môn chi biến]]. Do hai lần tức vị, Minh Anh Tông trở thành hoàng đế duy nhất trong số các hoàng đế Minh-Thanh cai trị Trung Nguyên sử dụng hai niên hiệu. Sau khi phục vị, Minh Anh Tông thi hành tân chính, phế trừ chế độ tuẫn tàng từ thời Minh Thái Tổ. Sau đó, Minh Anh Tông cho lưu đày Từ Hữu Trinh do chính biến nội bộ, nhân [[biến Tào Thạch]] mà giết đám Thạch Hanh, [[Tào Cát Tường]]; đồng thời cho đám hiền thần Lý Hiền nắm quyền. Năm 1464, sau khi Minh Anh Tông từ trần, con ông là Chu Kiến Thâm tức vị, tức [[Minh Hiến Tông]], niên hiệu Thành Hóa<ref name="土木之變"/>.
 
Để rửa oan cho Vu Khiêm, Minh Hiến Tông khôi phục đế hiệu cho Minh Đại Tông, xét lại án oan Đoạt Môn, khiến nhiều người hài lòng. Tuy nhiên, Minh Hiến Tông nói lắp, do vậy rất ít khi tiếp đại thần, suốt ngày say đắm với [[Vạn hoàng quý phi|Vạn quý phi]]<ref>查繼佐.《罪惟錄·列傳卷2·皇后列傳》皇太后周氏曰:「彼有何美,而承恩多?”明憲宗曰:“彼抚摩吾安之,不在貌也。”</ref>, sủng tín đám hoạn quan [[Uông Trực (hoạn quan)|Uông Trực]], [[Lương Phương]], những năm cuối còn yêu thích thuật thần tiên. Đến đây đám gian nịnh nắm quyền, Tây xưởng hoành hành, triều cương hủ bại, dân chúng khổ sở. Hoạn quan Uông Trực nhận được sủng tín của Minh Hiến Tông, ngông cuồng hống hách, thông qua Tây xưởng giết oan bừa bãi phổ thông dân chúng và quan viên. Không lâu sau, do dân chúng phẫn uất khởi nghĩa khắp nơi, Tây xưởng bị bãi, song Uông Trực vẫn nắm giữ đại quyền, đến năm 1482 mới bị giáng chức<ref name="土木之變"/>. Thời Thành Hóa có nhiều nhóm quyền lực: nữ sủng, ngoại thích, nịnh hạnh, gian hoạn, tăng đạo, kết thành bè đảng làm loạn triều chính<ref name="明朝中後期的政局">{{chú thíchcite book|author=姜公韜|title=《中國通史 明清史》|chapter=第四章 明朝中後期的政局|page=第51頁-第71頁|isbn=9787510800627|publisher=九州出版社|date=2010-1}}</ref>. Năm 1487, Minh Hiến Tông từ trần, con là Chu Hữu Đường kế vị, tức [[Minh Hiếu Tông]], niên hiệu Hoằng Trị.
 
Minh Hiếu Tông từ nhỏ xuất thân bần hàn, còn từng gặp nguy hiểm bị Vạn quý phi hại. Trong thời gian tại vị, ông tiến hành canh tân triều chính, khiến thói xấu từ thời Minh Anh Tông trở đi được loại trừ, được tán tụng là "Trung hưng chi lệnh chủ"<ref>夏燮.《明通鑑·卷40》。</ref>. Minh Hiếu Tông trước tiên đem toàn bộ đám quan lại gian nịnh và dư thừa từ thời Hiến Tông để lại loại bỏ hoặc bắt giữ trị tội. Đồng thời, Hiếu Tông tuyển chọn sử dụng người hiền tài, ủy nhiệm việc quan trọng cho người có tài<ref>《明史·卷304·懷恩傳》:「一时正人汇进,恩之力也。」</ref>. Minh Hiếu Tông chăm lo chính sự, mỗi ngày hai lần thị triều. Minh Hiếu Tông kiểm soát nghiêm ngặt hoạn quan, Cẩm y vệ và Đông xưởng cũng cẩn thận hành sự, dùng hình nhẹ bớt. Minh Hiếu Tông dốc sức thi hành tiết kiệm, không xây dựng công trình lớn, giảm miễn thuế phú. Bản thân Minh Hiếu Tông thi hành chế độ một vợ một chồng, ngoài [[Hiếu Thành Kính hoàng hậu|Trương hoàng hậu]] thì không có phi tần nào. Thời kỳ Hoằng Trị là thời kỳ tốt đẹp nhất từ trung kỳ triều Minh trở đi, Minh sử viết Minh Hiếu Tông "cung kiêm hữu chế, cần chính ái dân", được gọi là Hoằng Trị trung hưng<ref name="弘治正德">《明史:一個多重性格的時代》〈第二篇 第九章 從弘治中興到正德亂局 第三篇 第十二章 嘉靖初政與大禮紛爭〉. 第159頁-第171頁. 第211頁-第224頁</ref>. Tuy nhiên, vào trung hậu kỳ Minh Hiếu Tông không còn nghiêm túc lắng nghe can gián, đồng thời bắt đầu phung phí vô độ, khiến quốc gia bước vào tình cảnh khủng hoảng ngân khố, tệ chính vốn bị loại trừ vào sơ kỳ Hoằng Trị không những khôi phục toàn bộ mà còn trầm trọng hơn<ref>王其榘《明代內閣制度史》,中華書局,1989年</ref>. Năm 1505, Minh Hiếu Tông từ trần, con là Chu Hậu Chiếu tức vị, đó là [[Minh Vũ Tông]], niên hiệu Chính Đức.
 
=== Nội loạn và Bắc Lỗ Nam Oa===
[[Tập tinFile:The Great wall - by Hao Wei.jpg|nhỏ|180px|Minh Trường Thành giúp kháng cự Thát Đát, Ngõa Lạt tại phương bắc.]]
Đến thời Minh Vũ Tông, thế lực hoạn quan lại trỗi dậy, được quy là do Vũ Tông ham chơi mà lười chính sự. Tuy nhiên, bản thân họa này chưa uy hiếp đến hoàng quyền, tuy có [[Bát hổ]] như [[Lưu Cẩn]] làm càn, song cuối cùng không như tình hình hoạn quan chuyên quyền cuối thời [[Nhà Đường|Đường]], đám Lưu Cẩn cuối cùng vẫn bị Vũ Tông xử cực hình. Vũ Tông ham chơi, cuối cùng khiến dòng Hiếu Tông tuyệt tự<ref>{{chú thíchcite web|title=大太监刘瑾擅权|url=http://www.china.com.cn/aboutchina/zhuanti/lddw/2008-04/03/content_14208116.htm|publisher=中国网|accessdate=2014-01-17|language=中文|date=2008-04-03}}</ref>, khiến thống hệ Đại Minh lần thứ hai có việc dòng thứ nhập thành dòng chính<ref name="弘治正德"/>. Minh Vũ Tông đắm chìm trong vui thú khiến cho trong thời Chính Đức nhiều lần phát sinh chiến sự, các sự kiện trọng đại như [[Đại Diên Hãn]] của Thát Đát đem quân xâm phạm, An Hóa vương [[Chu Trí Phiên]] tại Ninh Hạ mưu phản, khởi nghĩa Lưu Lục-Lưu Thất tại Sơn Đông, Ninh vương [[Chu Thần Hào]] tại Giang Tây mưu phản. Năm 1520, Minh Vũ Tông lấy cớ xuất chinh Giang Tây để xuống phương nam du ngoạn, trên đường về kinh thì bị rơi xuống nước khi đang đi thuyền nên nhiễm bệnh, sang năm 1521 thì từ trần<ref name="弘治正德"/>.
 
Sau khi Minh Vũ Tông từ trần, cháu họ của Minh Hiếu Tông là Chu Hậu Thông kế thừa đại thống, đó là [[Minh Thế Tông]], niên hiệu Gia Tĩnh. Trong khoảng thời điểm đăng cơ, nhiều quyền thần như [[Dương Đình Hòa]], [[Mao Trừng]] buộc Minh Thế Tông tôn thân sinh phụ mẫu làm hoàng thúc phụ mẫu, khiến Minh Thế Tông phản cảm, đó là tranh chấp [[Đại lễ nghị]]. Cuối cùng, Minh Thế Tông tôn phụ mẫu làm hoàng đế và hoàng hậu, lập bài vị trong Thái Miếu trên Vũ Tông, ghi vào hoàng đế thực lục<ref name="弘治正德"/>.
Dòng 121:
 
=== Cải cách trung hưng===
[[Tập tinFile:Zhangjuzheng.jpg|thumb|left|140px|[[Trương Cư Chính]] thi hành cải cách trong Vạn Lịch trung hưng.]]
Sau khi tức vị, Minh Mục Tông trước sau tín nhiệm trọng dụng các danh thần như [[Từ Giai]], [[Cao Củng]] và [[Trương Cư Chính]]. Năm 1567, cựu thần từ thời Minh Thế Tông là Từ Giai khích động triều quan buộc tội Cao Củng, buộc Cao Củng từ quan hồi hương. Cao Củng không cam tâm, năm sau khích động triều quan buộc tội Từ Giai, Từ Giai bị buộc chính thức thoái hưu. Chính vụ thực tế trong triều dần rơi vào tay Trương Cư Chính. Những năm cuối Long Khánh, Cao Củng hồi triều, nhậm chức đại học sĩ đứng đầu nội các. Tướng lĩnh triều Minh và thủ lĩnh Thát Đát là Yêm Đáp Hãn đạt thành hòa nghị, sử xưng [[Yêm Đáp phong cống]]. Về hàng hải, triều đình mở cửa mậu dịch dân gian, sử xưng [[Long Khánh khai quan]]. Do thi hành hai điều này cùng các cải cách khác, triều Minh bắt đầu tiến vào thời kỳ Trung hưng, sử xưng [[Long Khánh tân chính]]. Năm 1572, Minh Mục Tông đột nhiên từ trần, Hoàng thái tử Chu Dực Quân kế vị khi mới gần 9 tuổi, tức [[Minh Thần Tông]], niên hiệu Vạn Lịch.<ref name="中興改革"/>.
 
Do Minh Thần Tông còn nhỏ tuổi, [[Hiếu Định thái hậu|Lý thái hậu]] nhiếp chính. Cao Củng do đối kháng với hoạn quan [[Phùng Bảo]] vốn được Thái hậu tín nhiệm nên bị bãi quan, còn Trương Cư Chính được Phùng Bảo hết sức ủng hộ. Trương Cư Chính phụ chính mười năm, thi hành cải cách, trên phương diện nội chính đề xuất "tôn chủ quyền, khóa lại chức, hành thưởng phạt, nhất hiệu lệnh", thi hành "[[khảo thành pháp]]", cắt giảm triệt tiêu quan viên dư thừa trong cơ cấu chính phủ, chỉnh đốn việc truyền tin và tuyển chọn quan lại. Trên phương diện kinh tế, tiến hành đo đạc cụ thể ruộng đất toàn quốc, ức chế hào cường địa chủ, cải cách chế độ phú dịch, thi hành "[[nhất điều tiên pháp]]", giảm nhẹ gánh nặng của nông dân<ref>{{chú thíchcite web|title=张居正变法与万历怠政|url=http://news.ifeng.com/history/1/jishi/200812/1225_2663_939713.shtml|publisher=凤凰网|accessdate=2014-01-17|date=2008-12-25}}</ref>. Năm 1393, vào thời kỳ Minh Thái Tổ, đất ruộng canh tác trên toàn quốc có 3.660.007 khoảnh, đến năm 1502 thời kỳ Minh Hiếu Tông chỉ tăng lên 4.228.058 khoảnh. Trải qua Trương Cư Chính trị lý, đến năm 1581 đạt đến 7.003.976 khoảnh. Trên phương diện quân sự, tăng cường chỉnh đốn vũ bị, bình định rối loạn tại tây nam, cho danh tướng [[Thích Kế Quang]] bảo vệ Kế Châu- trọng trấn cho Bắc Kinh, cho [[Lý Thành Lương]] an phủ các bộ lạc Nữ Chân, cho Vương Sùng Cổ, Phương Phùng Thì an phủ Thát Đát, các trọng thần khác như Lưu Hiển tại Tứ Xuyên, Ân Chính Mậu và Lang Vân Dực tại Lưỡng Quảng, Trương Giai Dận tại Chiết Giang, Trương Cư Chính rất tín nhiệm bọn họ<ref name="明朝中後期的政局"/>. Trương Cư Chính còn cho [[Phan Quý Tuần]] trị lý Hoàng Hà, biến thủy hoạn thành thủy lợi. Đồng thời, Trương Cư Chính trừng trị nghiêm khắc tham quan ô lại, cắt bỏ người vô dụng. Trương Cư Chính chỉnh đốn triều chính, cải cách thể chế, sử xưng [[Vạn Lịch trung hưng]]<ref name="中興改革"/>.
 
Năm 1577, cha của Trương Cư Chính từ trần, theo lệ thường ông phải giải chức hồi hương chịu tang trong ba năm, tức 'đinh ưu', song vì sự nghiệp cải cách chưa thành nên không muốn thực hiện. Địch thủ chính trị của ông nhân đó mà làm lớn chuyện, đó là "Đoạt Tình chi tranh". Cuối cùng, được Minh Thần Tông và hai vị thái hậu ủng hộ, Trương Cư Chính được miễn chịu tang tại gia, tức Đoạt tình khởi phục, do đó cải cách của ông không bị gián đoạn. Tuy nhiên, điều này trở thành một cớ để địch thủ chính trị của ông lợi dụng. Đồng thời, Trương Cư Chính lợi dụng chức quyền của bản thân để tạo thuận lợi cho con mình vượt qua khoa cử tiến vào Hàn lâm viện. Sau khi Trương Cư Chính từ trần, các địch thủ chính trị phản đối cải cách lập tức thanh toán. Một số người trong Trương phủ không kịp trốn bị giam bên trong, hơn chục người chết đói. Quan tước của Trương Cư Chính khi còn sống cũng bị tước<ref name="中興改革"/>.
 
=== Vạn Lịch đãi chính và đảng tranh===
[[Tập tinFile:明神宗像.jpg|thumb|160px|Minh Thần Tông là hoàng đế triều Minh tại vị trong thời gian dài nhất.]]
Thời gian đầu sau khi Trương Cư Chính từ trần, Minh Thần Tông vẫn có thể duy trì hứng thú với triều chính, song cùng với việc triều dã thanh toán thế lực của Trương Cư Chính, Minh Thần Tông bắt đầu ít thượng triều. Sau Quốc bản chi tranh, ông thậm chí còn có thái độ đãi chính tiêu cực. Trong thời gian Minh Thần Tông tại vị, về đối nội có các sự kiện nghiêm trọng như Đông Lâm đảng tranh, Quốc bản chi tranh và Vạn Lịch đãi chính; đối ngoại có các chiến dịch lớn như Vạn Lịch tam đại chinh và Hậu Kim quật khởi. Triều đại Vạn Lịch là thời kỳ chuyển đổi từ thịnh sang suy của triều Minh<ref>{{chú thíchcite book|author=樊树志|title=《万历皇帝传》|year=樊树志|publisher=凤凰出版社(原江苏古籍出版社)|isbn=9787807297956|language=中文}}</ref>. [[Quốc bản chi tranh]] là một sự kiện chính trị trọng đại kéo dài suốt từ trung kỳ đến vãn kỳ thời gian Minh Thần Tông trị vì, chủ yếu là xung quanh tranh chấp kế thừa hoàng vị giữa Hoàng trưởng tử [[Minh Quang Tông|Chu Thường Lạc]] và Phúc vương [[Chu Thường Tuân]] (con của Trịnh quý phi). Do [[Hiếu Đoan Hiển hoàng hậu|Vương hoàng hậu]] không có con trai, Minh Thần Tông đặc biệt yêu mến hoàng tử thứ ba là Chu Thường Tuân, không muốn lập hoàng tử thứ nhất là Chu Thường Lạc làm thái tử, quan viên trong triều do đó phân thành hai phái khác biệt. Đến năm 1601, dưới áp lực của [[Hiếu Định thái hậu|Hoàng thái hậu]], Chu Thường Lạc mới được phong làm thái tử, còn Chu Thường Tuân được phong làm Phúc vương. Tuy nhiên, Phúc vương chậm rời kinh thành đi nhậm chức vị phiên vương. Đến khi phát sinh "[[Đĩnh kích án]]", dư luận bất lợi với Trịnh quý phi, Phúc vương mới rời kinh tới phiên, địa vị thái tử của Chu Thường Lạc nhờ vậy mà được vững chắc<ref name="萬歷"/>.
 
Do tranh chấp lập thái tử, Minh Thần Tông bất mãn cực độ đối với đại thần, năm 1587 bắt đầu lấy việc không thượng triều để trả đũa, chỉ xử lý một số sự kiện trọng yếu<ref>{{chú thíchcite book|title=《[[明实录]]·神宗实录》卷一|quote=上明习政事,乾纲独揽,予夺进退,莫可测识。晚颇厌言官,章奏概置不报。然每遇大事,未尝不折衷群议归之。圣裁中外,振耸四封。}}</ref>. Minh Thần Tông không thị triều vào ngày đầu năm, sáng sớm không thị triều, cả ngày đắm chìm trong tửu sắc, mỗi năm lại tiến hành tuyển mỹ nữ, thường thích xây cất, hay cho xây công trình quy mô lớn. Đại lý tự tả bình sự dâng sớ, nói Minh Thần Tông đắm chìm trong tửu, sắc, tài, khí, kết quả bị giáng làm dân. Trung hậu kỳ thời Minh Thần Tông, tình hình tài chính nguy nan<ref>{{chú thíchcite web|title=明代中后期的商业税收研究|publisher=林枫|date=2009-08-12|url=http://hxd.wenming.cn/kyjjcg/2009-08/12/content_39936.htm|accessdate=2011-06-20|language=zh}}</ref>, do đó Minh Thần Tông phái thái giám làm khoáng giám và thuế giám trên toàn quốc để tăng thêm ngân khố. Tuy nhiên, khoáng giám và thuế giám đại đa số lấy danh nghĩa để vơ vét tài sản dân gian, nhiễu loạn quốc gia. Do Minh Thần Tông không quản lý triều chính, hiện tượng khuyết quan viên rất nghiêm trọng. Năm 1602, Nam-Bắc lưỡng kinh tổng cộng khuyết ba thượng thư, mười thị lang, các địa phương khuyết ba [[tuần phủ]], 66 bố chính sứ hay án sát sứ, 25 tri phủ. Bên trên Minh Thần Tông chán trường, bên dưới triều thần tranh chấp, triều đình Minh hoàn toàn bước vào trong tình trạng không hoạt động. Do vậy, Minh sử viết rằng có nhà bình luận nói triều Minh thực tế mất từ thời Thần Tông<ref name="萬歷"/>, bộ phận sử gia nhận định triều Minh từ đây bắt đầu hướng đến diệt vong<ref>{{chú thíchcite book|author=黃仁宇|title=《萬曆十五年》|publisher=生活·讀書·新知三聯書店}}</ref>.
 
Do triều chính hỗn loạn, một bộ phận quan lại cấp trung và thấp chịu bài xích về chính trị, liên tiếp yêu cầu cải cách chính trị, đồng thời nhấn mạnh tiêu chuẩn đạo đức. Năm 1593, [[Đông Lâm đảng]] hình thành, danh xưng bắt nguồn từ [[Đông Lâm thư viện]] do [[Cố Hiến Thành]] sáng lập. Chủ trì kinh sát là Tôn Lung, Lý Thế Đạt và Triệu Nam Tinh, lợi dụng kinh sát để giáng chức bãi quan các quan lại không hợp với tiêu chuẩn của họ và không thuộc Đông Lâm đảng. Trải qua nhiều lần kinh sát, nhiều đảng phản đối như Tuyên đảng, Côn đảng, Tề đảng, Chiết đảng đứng lên và xung đột với Đông Lâm đảng. Từ đó, họa bè phái không dẹp nổi, triều chính đình đốn nội loạn<ref>《[[明史]]·卷224·孫鑨傳》、《[[明史]]·卷243·趙南星傳》、文秉·《[[定陵註略]]·卷三·癸巳大計》</ref>. Sang thời Minh Hy Tông, phái hoạn quan chuyên quyền, Đông Lâm đảng chịu đả kích nghiêm trọng, đến đầu thời Minh Tư Tông mới lại được sử dụng<ref name="萬歷">{{chú thíchcite book|title=《明史:一個多重性格的時代》|chapter=第四篇 第十七章 神宗貪怠與東林會議|page=第327頁-第345頁}}</ref>.
 
Trên phương diện quân sự đối ngoại, Vạn Lịch tam đại chinh là nổi danh nhất, đó là [[Ninh Hạ chi dịch]] nhằm bình định [[Bột Bái]] người Mông Cổ làm phản, [[Chiến tranh Nhật Bản-Triều Tiên (1592-1598)|Triều Tiên chi dịch]] nhằm kháng kích chính quyền [[Gia tộc Toyotomi|Toyotomi]] Nhật Bản xâm nhập [[nhà Triều Tiên|vương triều Triều Tiên]], [[Bá Châu chi dịch]] nhằm binh định Thổ ty [[Dương Ứng Long]] làm phản, ba cuộc chiến trường kỳ này gần như đồng thời phát sinh, song tính chất không tương đồng. Triều Minh giành thắng lợi trong ba đại chiến này giúp củng cố biên cương, bảo hộ vương triều Triều Tiên, song làm tiêu hao lượng lớn nhân lực vật lực, là một trong các nguyên nhân trọng yếu khiến quốc khố trống rỗng, tài chính nguy khốn<ref>{{chú thíchcite book|title=《[[明史]]·卷350·陳增傳》|quote=寧夏用兵,費帑金二百餘萬。其冬,朝鮮用兵,首尾八年,費帑金七百餘萬。二十七年,播州用兵,又費帑金二三百萬。三大征踵接,國用大匱}}</ref><ref>{{chú thíchcite book|title=《[[明史]]·卷123·王德完傳》|quote=近歲寧夏用兵,費百八十餘萬;朝鮮之役,七百八十餘萬;播州之役,二百餘萬}}</ref>. Năm 1617, thủ lĩnh Hậu Kim là [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]] lấy [[thất đại hận]] làm cớ tiến hành phản Minh, hai năm sau đại thắng quân Minh trong [[trận Tát Nhĩ Hử]], triều Minh đến lúc này chọn sách lược phòng ngự làm chủ yếu để ứng phó với Hậu Kim<ref name="萬歷"/>.
 
Năm 1620, Minh Thần Tông từ trần<ref>{{chú thíchcite book|title=《明实录·神宗实录》卷之五百九十六,七月丙申条|quote=上疾大渐,召英国公张惟贤、大学士方从哲、吏部尚书周嘉谟、户部尚书李汝华、兵部尚书董嘉善、署刑部事摠督仓场尚书张问达、署工部事协理戎政尚书黄克缵、礼部右侍郎孙如游等入见于弘德殿。勉以用心办事,大小诸臣各致词问安。尚书周嘉谟仍以用人为请随赐。俞允诸臣叩头而出。上谕内阁:‘朕嗣祖宗大统历今四十八年,久因国事焦劳以致脾疾,遽不能起。有负先皇付托惟。皇太子青宫有年,实赖卿与司礼监协心辅佐。遵守祖制,保固皇图,卿功在社稷万世不泯。’是日,上崩。}}</ref>. Thái tử Chu Thường Lạc đăng cơ, tức [[Minh Quang Tông]], niên hiệu Thái Xương, tại vị chỉ được một tháng. Ông ban thưởng cho quân Minh tại tiền tuyến Liêu Đông, trọng dụng người thuộc Đông Lâm đảng khiến triều chính chuyển nguy thành an, đồng thời ông bãi trừ khoáng giám thuế sứ<ref name="天啟崇禎"/>. Sinh mẫu của Phúc vương là Trịnh quý phi nhằm lung lạc Minh Quang Tông nên tiến hiến tám vị mỹ nữ. Minh Quang Tông ham mê quá độ nên không lâu thì đổ bệnh, Thái giám Thôi Văn Thăng dâng thuốc xổ khiến ông đi ngoài quá độ, lại do sử dụng 'hồng hoàn' của Lý Khả Chước mà đột tử, sử xưng "[[Hồng hoàn án]]". Sau khi Minh Quang Tông từ trần, sủng phi của ông là [[Lý khang phi|Lý Tuyền Thị]] muốn ở lại Càn Thanh cung, nhằm đề phòng bà can dự triều chính nên triều thần buộc bà đến Uyết Loan cung thuộc Nhân Thọ điện<ref>{{chú thíchcite book|title=《[[明季北略]]》(卷2)|quote=予按郑贵妃慧人也,神宗宠之,生福王;李选侍郑党也,光宗宠之。当光宗登极,郑、李进美人等,遂致不起。光宗崩,李选侍犹居干清宫,欲与熹宗同居,邀封后,垂帘称制;而杨、左等以选侍素无德,又非生母、嫡母与养母,恐有武氏之祸,必欲令选侍出干清宫,不与熹宗同居,竖议甚正,未免稍激,遂为群小所忌,而祸自此始矣。}}</ref>, tức [[Di cung án]]. Hoàng trưởng tử Chu Do Hiệu cuối cùng kế vị, tức [[Minh Hi Tông]], niên hiệu Thiên Khải. "Đĩnh kích án", "Hồng hoàn án" và "Di cung án" gọi chung là "Minh mạt tam đại án", là kế tục của Quốc bản chi tranh, khiến đấu tranh chính trị trong triều đình Minh càng thêm kịch liệt, cũng đánh dấu bắt đầu thời kỳ Minh mạt suy vong<ref name="天啟崇禎">{{chú thíchcite book|title=《明史:一個多重性格的時代》|chapter=第四篇 第十九章 天啟崇禎年間的政治亂象 第二十章 內外威脅與明朝滅亡|page=第363頁-第404頁}}</ref>.
 
=== Nguy cơ kinh tế và Nội ưu ngoại hoạn ===
Trong thời gian Minh Hi Tông tại vị, chính trị càng hủ bại đen tối. Minh Hi Tông do mất mẹ từ nhỏ nên có cảm tình đặc biệt với nhũ mẫu [[Khách thị]]. Khách thị và hoạn quan [[Ngụy Trung Hiền]] hợp tác với nhau làm càn. Thời kỳ ban đầu, Minh Hi Tông sử dụng lượng lớn người của Đông Lâm đảng, kết quả khiến Đông Lâm đảng và các đảng khác đấu tranh không ngừng, Minh Hi Tông do đó mất kiên nhẫn với triều chính, Ngụy Trung Hiền nhờ cơ hội này mà can dự chính trị, tập kết thế lực các đảng Tề-Sở-Chiết, hiệu là [[Yêm đảng]]. Năm 1624, Yêm đảng khống chế nội các, Ngụy Trung Hiền càng thêm ngông cuồng, móng vuốt của ông ta trải khắp trung ương và địa phương. Khi quyền thế tối thịnh, dưỡng tử của Ngụy Trung Hiền có thể thay thế hoàng đế tế Thái Miếu. Toàn quốc đều có miếu thờ sống Ngụy Trung Hiền, còn có học giả Quốc tử giám thuộc Yêm đảng đề xuất Ngụy Trung Hiền sánh ngang [[Khổng Tử]], cha của Ngụy Trung Hiền sánh ngang Khải Thánh công<ref>{{chú thíchcite book|author=韩大成|title=《魏忠贤传》|year=1997|publisher=人民出版社|location=北京|isbn=9787010022987|language=中文}}</ref>. Ngụy Trung Hiền ra sức đả kích Đông Lâm đảng, mượn tam án "Đĩnh kích, Hồng hoàn, Di cung" làm cớ, sai đồng đảng ngụy tạo "Đông Lâm đảng điểm tướng lục" thượng báo triều đình. Năm 1625, Minh Hi Tông hạ chiếu thiêu hủy thư viện toàn quốc, lượng lớn người thuộc Đông Lâm đảng bị vào tù, thậm chí bị xử tử. Do yêm đảng có trình độ thấp kém, chính trị không được chỉnh trị, trong nước thường xuyên xảy ra mất mùa đói kém, dân biến không ngừng, ngoại hoạn vẫn tiếp tục, triều Minh bước vào tình cảnh hiểm nghèo. Năm 1626, kho thuốc nổ của vương cung xưởng thuộc Công bộ tại góc tây nam Bắc Kinh phát nổ, tức [[Vương cung xưởng đại bạo tạc]], khiến cho hơn hai vạn người tử thương. Năm 1627, Minh Hi Tông không cẩn thận rơi xuống nước mà mắc bệnh trọng, không lâu sau vì thuốc của [[Hoắc Duy Hoa]] mà từ trần, em là Tín vương Chu Do Kiểm kế vị, tức Minh Tư Tông, niên hiệu Sùng Trinh<ref name="天啟崇禎"/>.
 
[[Tập tinFile:Ming Chongzhen.jpg|thumb|160px|Minh Tư Tông Chu Do Kiểm là hoàng đế cuối cùng của triều Minh.]]
Sau khi tức vị, Minh Tư Tông kiên quyết loại trừ thế lực của Ngụy Trung Hiền để cải cách triều chính. Ông hạ lệnh đình chỉ xây dựng miếu thờ sống, bức Phụng Thánh phu nhân Khách thị ra ở ngoài cung, cuối cùng xử tử. Ông hạ lệnh Ngụy Trung Hiến đến Phụng Dương trông lăng mộ, Ngụy Trung Hiền trên đường đi cùng đồng đảng là Lý Triều Khâm tự tử, các phần tử khác trong Yêm đảng cũng bị biếm truất hoặc xử tử<ref>{{chú thíchcite news|title=崇祯智除魏忠贤|url=http://ctdsb.cnhubei.com/html/ncxb/20090307/ncxb643717.html|accessdate=2014-01-17|newspaper=农村新报|date=2009-03-07|language=中文}}</ref><ref>{{chú thíchcite book|author=陈时龙|title=《正说明朝十六帝》|publisher=中华书局|location=北京|isbn=9787101045499|coauthors=许文继|language=中文|chapter=<思宗朱由检>|date=2005-01-01}}</ref>. Tuy nhiên, đảng tranh nội đấu kịch liệt, Minh Tư Tông không tín nhiệm bá quan, ông cố chấp, tăng cường tập quyền<ref name="天啟崇禎"/>. Đương thời, Hậu Kim tại phía đông bắc chiếm lĩnh khu vực Liêu Đông, đám [[Viên Sùng Hoán]] tại Liêu Tây kháng cự Khả hãn [[Hoàng Thái Cực]] xâm nhập. Năm 1629, Hoàng Thái Cực chuyển sang đi đường vòng Trường Thành để xâm nhập Bắc Kinh, Viên Sùng Hoán khẩn cấp hồi quân đối đầu với Hoàng Thái Cực tại Quảng Cừ môn Bắc Kinh. Trải qua Lục bộ cửu khanh hội thẩm, cuối cùng triều đình Minh xử tử Viên Sùng Hoán, sử xưng [[Kỉ Tị chi biến]]. Sau đó, Hoàng Thái Cực nhiều lần viễn chinh Mông Cổ, năm 1636 xưng đế tại Thịnh Kinh, cải quốc hiệu thành Đại Thanh. Hoàng Thái Cực liên tiếp phát động năm lần qua Trường Thành xâm nhập các khu vực Trực Lệ, Sơn Đông. Đương thời, Trực Lệ nhiều năm đói kém dịch bệnh, dân sinh gian khổ<ref>{{chú thíchcite book|author=抱陽生|title=《甲申朝事小計》|chapter=卷六提到|quote=崇禎十六年二月北京,“大疫,人鬼錯雜。薄暮人屏不行。貿易者多得紙錢,置水投之,有聲則錢,無聲則紙。甚至白日成陣,牆上及屋脊行走,揶揄居人。每夜則痛哭咆哮,聞有聲而逐有影”。[[谷應泰]]《明史紀事本末》卷七十八中說「“京師內外城堞凡十五萬四千有奇,京營兵疫,其精銳又太監選去,登陴訣羸弱五六萬人,內閹數千人,守陴不充”。}}</ref>. Cục thế Liêu Tây cũng ngày càng xấu đi, cuối cùng quân Thanh vào năm 1640 chiếm lĩnh Cẩm Châu và các nơi khác, tướng [[Hồng Thừa Trù]] đầu hàng, thế lực triều Minh thu nhỏ đến Sơn Hải quan<ref name="天啟崇禎"/>.
 
Từ trung kỳ về sau, Đại Minh thường phát sinh nông dân khởi nghĩa, đến thời kỳ Minh Tư Tông do triều chính hỗn loạn và quan viên tham ô bất tài, nhu cầu phục vụ chiến tranh với Hậu Kim và quân Hậu Kim cướp đoạt, cùng với việc khí hậu trở nên lạnh hơn do [[Thời kỳ băng hà nhỏ|tiểu băng kỳ]], sản lượng nông nghiệp giảm gây nên đói kém trên quy mô toàn quốc, những điều này đều làm tăng gánh nặng cho nhân dân. Năm 1627, dân đói tại [[Trừng Thành]] thuộc Thiểm Tây tiến hành bạo động, khởi đầu cho giai đoạn Minh mạt dân biến, sau đó [[Vương Tự Dụng]], [[Cao Nghênh Tường]], [[Lý Tự Thành]], [[Trương Hiến Trung]] cùng những nông dân khác khởi nghĩa, cuối cùng phát triển thành Lý Tự Thành hùng cứ Thiểm Tây, Hà Nam, còn Trương Hiến Trung chiếm cứ Tứ Xuyên. Năm 1644, Lý Tự Thành kiến quốc [[Đại Thuận]], sau đó đánh hạ Bắc Kinh, Minh Tư Tông tự vẫn, triều Minh mất<ref name="天啟崇禎"/>. Ngô Tam Quế là tướng Minh trấn thủ Sơn Hải Quan, sau khi triều Minh mất ông ta quyết định dẫn quân Thanh nhập quan, đánh bại quân Đại Thuận. Nhiếp chính vương [[Đa Nhĩ Cổn]] và [[Thuận Trị|Thuận Trị Đế]] của triều Thanh nhập quan, Bắc Kinh trở thành thủ đô của triều Thanh. Lý Tự Thành triệt thoái về Thiểm Tây, cuối cùng bị quân Thanh tiêu diệt<ref name="天啟崇禎"/>
 
=== Nam Minh và Minh Trịnh===
Sau khi triều Minh diệt vong, tại phương nam vẫn còn thế lực, sử xưng [[Nam Minh]]. Thế lực chủ yếu của Nam Minh có Tứ hệ vương: Phúc vương [[Chu Do Tung]], Lỗ vương [[Chu Dĩ Hải]], Đường vương [[Chu Duật Kiện]] và [[Chu Duật Việt]] (𨮁), Quế vương [[Chu Do Lang]]. Sau khi Nam Minh diệt vong, còn có chính quyền Minh Trịnh do Trịnh Thành Công kiến lập, và [[Quỳ Đông thập tam gia]] kháng Thanh. Năm 1644, sau khi Bắc Kinh bị Lý Tự Thành chiếm lĩnh, đại thần Nam Minh có ý ủng hộ hoàng tộc Bắc phạt. Trải qua nhiều lần thảo luận, Phúc vương Chu Do Tung xưng đế dưới sự ủng hộ của Phụng Dương tổng đốc [[Mã Sĩ Anh]] và Giang Bắc tứ trấn [[Cao Kiệt]], [[Hoàng Đắc Công]], [[Lưu Trạch Thanh]] và [[Lưu Lương Tá]], tức Hoằng Quang Đế, sử xưng Nam Minh. Năm 1645, triều Thanh phái [[Đa Đạc]] đem đại quân nam hạ Nam Kinh, đương thời Hoằng Quang Đế bất tài, đại quyền do tàn dư của Yêm đảng khống chế, Giang Bắc tứ trấn cuối cùng liên tiếp tan vỡ. Quân Thanh công phá Dương Châu do [[Sử Khả Pháp]] tử thủ, Hoằng Quang Đế đào thoát đến [[Vu Hồ]] thì bị bắt giữ, bị đưa đến Bắc Kinh để xử tử. Thời gian đó, quân Thanh tiến hành đại đồ sát [[Dương Châu thập nhật]], [[Giang Âm bát thập nhất nhật]] và [[Gia Định tam đồ]] để trấn áp người Hán phản kháng<ref name="明清之際">{{chú thíchcite book|author=姜公韜|title=《中國通史 明清史》|chapter=第五章 明清之際|page=第73頁-第93頁}}</ref>.
 
Sau khi Hoằng Quang Đế bị giết, Lỗ vương Chu Dĩ Hải tại [[Thiệu Hưng]] xưng là giám quốc, Đường vương Chu Duật Kiện được đám [[Trịnh Chi Long]] ủng hộ xưng đế tại Phúc Châu, tức Long Vũ Đế. Tuy nhiên, hai thế lực chủ yếu này của Nam Minh không thừa nhận địa vị của bên kia và đánh lẫn nhau. Long Vũ Đế liên tục đề nghị đưa quân Bắc phát, song không được Trịnh Chi Long ủng hộ nên cuối cùng không thành. Năm 1646, quân Thanh phân biệt chiếm lĩnh Chiết Giang và Phúc Kiến, Lỗ vương Chu Dĩ Hải đào vong trên biển, Long Vũ Đế đào thoát đến Giang Tây thì bị bắt rồi từ trần. Trịnh Chi Long đầu hàng quân Thanh, song vì con là [[Trịnh Thành Công]] khởi binh phản Thanh mà bị triều đình cầm tù. Sau khi Chu Duật Kiện từ trần, em là Chu Duật Việt tại [[Quảng Châu]] xưng đế, tức Thiệu Vũ Đế, cùng năm bị tướng Thanh là [[Lý Thành Đống]] công diệt. Đồng thời gian, Quế vương Chu Do Lang tại [[Triệu Khánh]], Quảng Đông xưng đế, tức Vĩnh Lịch Đế<ref name="明清之際"/>.
Dòng 159:
== Cương vực==
===Tái bắc địa khu===
Trong thời kỳ đầu, triều Minh nhiều lần tác chiến với Bắc Nguyên và sau là Thát Đát cùng Ngõa Lạt, đồng thời tại khu vực Mạc Nam đặt hơn 40 [[vệ sở chế|vệ sở]] phòng vệ, như Đông Thắng vệ, Vân Xuyên vệ, chúng đều là trọng địa biên phòng của triều đình, hướng của chúng vào khoảng tuyến [[Âm Sơn]]-sườn nam Đại Thanh Sơn-sông Tây Lạp Mộc Luân. Sau thập niên 30 của thế kỷ 15, do khí hậu chuyển lạnh, nông nghiệp giảm sút, trong Tĩnh Nan chi dịch quân đội biên cương bị Yên vương điều đi nơi khác, do đó biên giới dời một ít về phía nam. Trong những năm Vĩnh Lạc, quân Minh nhiều lần Bắc phạt, tình hình biên giới cải thiện trong một thời gian. Tuy nhiên, từ trung kỳ trở đi, Mông Cổ lại quật khởi, biên giới lại dời về phía nam. Cùng với dựng Trường Thành nhằm phòng ngự Mông Cổ, ven Trường Thành còn đặt "cửu biên" (Liêu Đông, Kế Châu, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Diên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Thái Nguyên, Cố Nguyên) tăng cường phòng ngự. Trường Thành cũng trở thành biên giới phía bắc của triều Minh vào trung-hậu kỳ, đồng thời còn là giới tuyến giữa khu vực nông canh và khu vực du mục<ref name="明朝疆域">{{chú thíchcite book|author=姜公韜|title=《中國通史 明清史》|chapter=第三章 制度的更張與勢力的發揚|page=第40頁-第49頁|isbn=9787510800627|publisher=九州出版社|date=2010-1}}</ref>.
 
===Đông bắc địa khu===
Dòng 174:
 
== Phân chia hành chính==
[[Tập tinFile:Ming Dynasty Administrative division.jpg|left|thumb|300px|Phân chia hành chính Trung Quốc thời cực thịnh.]]
Triều Minh về đại thể kế thừa phân chia hành chính của triều Nguyên, khu hành chính địa phương cấp một đặt 'thừa tuyên bố chính ty' (bố chính ty), 'đề hình án sát sứ ty' (án sát ty), và 'đô chỉ huy sứ ty' (đô ty), phân biệt quản lý hành chính, tư pháp và quân sự, phòng ngừa tập trung quyền lực địa phương<ref name="明朝州省">《細說明朝》〈二一、州、省〉. 黎東方. 第51頁</ref>. 'Bố chính ty' được gọi phổ biến là tỉnh, bên dưới lần lượt phân thành đạo, phủ, và huyện. Đạo là đơn vị hành chính đặt giữa tỉnh và phủ huyện, phân thành hai loại 'phân thủ đạo' và 'phân tuần đạo'. "Phủ" nguyên là lộ của triều Nguyên, lấy thuế lương ít hay nhiều để phân tiêu chuẩn, lương từ 20 vạn thạch trở lên là 'thượng phủ', từ 10 đến dưới 20 vạn thạch là 'trung phủ', dưới mười vạn thạch là 'hạ phủ'. Phân định quân sự có hai chế độ là vệ, sở. Thời Đại Tông, Anh Tông đặt tuần phủ quản lý hành chính và tổng đốc quản lý quân sự do trung ương phái đi, địa vị đứng đầu tại bố chính ty và đô ty. Nhằm hạn chế quyền lực của tuần phủ và tổng đốc, còn đặt chức 'đô ngự sử' để cân bằng. Triều Minh cuối cùng có 140 phủ, 193 châu, 1138 huyện, 493 vệ, 359 sở<ref name="明朝州省"/>.
 
Dòng 187:
 
== Chế độ chính trị==
[[Tập tinFile:Forbidden City Beijing Shenwumen Gate.JPG|260px|thumb|Thần Vũ môn là cửa bắc của Tử Cấm Thành Bắc Kinh, xây xong vào năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420)]]
Năm Hồng Vũ thứ 13 (1380), Minh Thái Tổ lấy việc Thừa tướng Hồ Duy Dung mưu phản nên phế bỏ chức vụ thừa tướng, các hoàng đế sau này cũng không đặt lại chức vụ này. Từ thời [[nhà Tần|Tần]], [[nhà Hán|Hán]] trở đi Trung Quốc đã hơn 1600 năm thực hành chế độ tể tướng, đến đây bị phế bỏ, lục bộ trực tiếp do hoàng đế phụ trách, quyền của thừa tướng và quyền về quân sự hợp làm một, hoàng đế triều Minh một mình nắm đại quyền, thể chế chính trị của triều Minh cũng là chính thể chuyên chế hiếm thấy trong lịch sử thế giới, thi hành thể chế quốc gia tam quyền phân lập: quân quyền, quyền hành chính, quyền giám sát, về sau do quyền giám sát bị phế bỏ, quốc thể mất cân bằng mà nhanh chóng suy bại. Do có nhiều quốc sự, hoàng đế không thể xử lý hết, đến năm Kiến Văn thứ 4 (4) Minh Thành Tổ mới bắt đầu đặt [[nội các]]. Nội các chỉ là cố vấn cho hoàng đế, phê đáp tấu chương do hoàng đế chuyên trách. Nội các triều Minh từ khi khởi đầu đến khi kết thúc đều không phải là cơ cấu hành chính cấp một trung tâm trong triều, được cho rằng chỉ là biệt xưng của Văn Uyên các. Chức vụ Nội các đại học sĩ phần nhiều là người có tài đức hoặc đại thần trong triều đảm nhiệm, chỉ theo ý chỉ của hoàng đế mà viết ra, gọi là "truyền chỉ đương bút", quyền lực và địa vị còn xa mới bằng tể tướng khi xưa, chỉ có địa vị ngầm, song không có địa vị pháp định. Thời kỳ Tuyên Tông, do có ba người họ Dương là Dương Phổ, Dương Sĩ Kỳ và Dương Vinh tham gia nội các, Tuyên Tông phê chuẩn nội các khởi thảo thánh chỉ trần thuật ý kiến của họ, gọi là chế độ "phiếu nghĩ" 票擬, lại trao cho cơ cấu hoạn quan là Ty lễ giám phê thay tức "phê chu" 批朱. Phép "phiếu nghĩ" khắc phục tệ quân chủ không muốn diện kiến các triều thần, song đại thần nội các và hoàng đế ngăn cách, đều dựa vào Ty lễ giám, do đó khởi đầu chế độ hoạn quan chuyên chính trong triều Minh. Nhằm tăng cường giám thị với thần dân toàn quốc, Minh Thái Tổ còn thiết lập cơ cấu đặc vụ mang tên "cẩm y vệ", Minh Thành Tổ lập thêm "đông xưởng", Minh Hiến Tông lập "tây xưởng" (về sau phế bỏ), gọi chung là "xưởng vệ", do hoạn quan thống lĩnh, từ đó quyền thế của hoạn quan triều Minh đạt đến cực độ<ref name="洪武專政"/><ref>王其榘《明代內閣制度史》,中華書局,1989年,第339頁</ref>.
 
===Cơ cấu chủ yếu===
[[Tập tinFile:Wen Yuan Chamber.JPG|260px|left|thumb|Văn Uyên các là một trung tâm chính trị triều Minh, nằm tại bên đông ba đại điện Tử Cấm Thành.]]
Nội các ban đầu là chỉ cơ cấu tư vấn của hoàng đế, về sau trở thành cơ cấu quyết sách tối cao trên thực tế của triều Minh, địa vị thủ phụ có khi sánh với tể tướng, có quyền "phiếu nghĩ". Chu Nguyên Chương sau khi phế bỏ chế độ trung thư tỉnh và thừa tướng, đích thân xử lý chính vụ, có khi bị kiệt sức, do vậy thiết lập chế độ tứ phụ để phụ tá chính sự, song không hiệu quả, đến năm Hồng Vũ thứ 17 (1384) thì bãi bỏ. Sau đó, Chu Nguyên Chương mời một số vị hàn lâm học sĩ giúp phụ tá, các quan chức hàn lâm học sĩ này phỏng theo chế độ cũ học sĩ quán các Đường-Tống, được cho là "Mỗ mỗ điện (các) đại học sĩ"<ref>洪武十五年初制时有华盖殿大学士(嘉靖随殿易名中极殿大学士)、文华殿大学士、武英殿大学士、文渊阁大学士、东阁大学士,永乐时增谨身殿大学士(嘉靖随殿易名建极殿大学士)</ref>, bậc quan chỉ có chính ngũ phẩm. Đây chính là cơ cấu nội các<ref>《細說明朝》〈三二、内阁〉. 黎東方. 第77頁</ref>.
 
Dòng 227:
 
== Quân sự==
[[Tập tinFile:Ming musketeers.jpg|200px|thumb|left|[[Điểu thương thủ|Hỏa thương thủ]] của Thần cơ doanh triều Minh.]]
Nguồn gốc ban đầu của quân đội triều Minh, gồm có các binh sĩ vốn có, gọi là tòng chinh, có binh sĩ triều Nguyên và binh sĩ quần hùng quy phụ, có người hoạch tội đày ải, song nguồn chủ yếu nhất là tuyển theo hộ tịch, cũng tức là 'đóa tập quân'. Ngoài ra, còn có các phương thức giản bạt, đầu sung và thu tập. Ngoài ra, từ trung kỳ triều Minh trở về sau còn có chuyện cưỡng bách dân làm binh, tuy nhiên đều là thiểu số, về mặt chính thức, "vệ sở chế" vẫn là quân chế chủ yếu. Vệ sở chế là tại yếu địa quân sự các địa phương toàn quốc thiết lập vệ sở trú quân, "vệ" có quân đội quy mô 5600 người, bên dưới có các đơn vị như thiên hộ sở, bách hộ sở, tổng kỳ và tiểu kỳ, các vệ sở đều lệ thuộc ngũ quân đô đốc phủ, cũng là lệ thuộc Binh bộ, khi hữu sự được điều động, khi vô sự lại trở về vệ sở. Nguồn gốc của quân đội là quân hộ thế tập, do mỗi hộ phái một người làm "chính đinh" đến vệ sở làm binh, quân nhân trong vệ sở luân phiên phòng thủ và đồn điền, đồn điền đáp ứng nhu cầu của quân đội và tướng quan. Mục tiêu của nó là nuôi binh song không tiêu hao tài lực quốc gia, song từ thời Minh Tuyên Tông về sau thì không thể duy trì, mức sinh hoạt và địa vị của quân nhân ngày càng hạ thấp, binh sĩ đào ngũ dần gia tăng, quân bị do đó dần dần hư hỏng<ref>《細說明朝》〈二五、军民分籍、卫所〉. 黎東方. 第59頁-第60頁</ref>.
 
Dòng 234:
Trong những năm Gia Tĩnh, khi ứng phó loạn Uy khấu, tướng lĩnh Thích Kế Quang tại khu vực Chiết Giang sử dụng phương thức chiêu mộ dân binh huấn luyện thêm, thay thế vệ sở binh không đảm đương nổi. Chính vì nguyên nhân quân chính quy là vệ sở quân không đảm đương nổi, cho nên lực lượng dân binh đến hậu kỳ triều Minh dần dần đảm nhiệm vai trò bộ đội tác chiến duy trì sự thống trị hữu hiệu của triều đình, trong đó nổi tiếng nhất là Thích gia quân do Thích Kế Quang chiêu mộ chủ yếu từ người Chiết Giang, bộ đội tư nhân Liêu Đông thiết kỵ của Lý Như Tùng, và Quan Ninh thiết kỵ do Viên Sùng Hoán chiêu mộ chủ yếu từ người Liêu Đông<ref>《細說明朝》〈二六、五军都督府、兵部〉. 黎東方. 第61頁-第62頁</ref>。
 
[[Tập tinFile:大沽口炮臺:明代鐵炮(1.jpg|280px|thumb|Pháo đài Đại Cô Khẩu: Thiết pháo thì Minh]]
Có học giả nhận định kỹ thuật chế tạo hỏa khí Trung Quốc bắt đầu từ thời kỳ Đường Tống, vào thời Minh đã phát triển đến trình độ rất cao. Hỏa khí thời kỳ này không chỉ đa dạng về chủng loại, mà kỹ thuật chế tạo và tính năng đều được nâng cao cực lớn. [[Tên lửa]] và [[súng hỏa mai]] là các hỏa khí hạng nhẹ chủ yếu của quân đội triều Minh, mìn đã rất thịnh hành vào thời Minh, phát triển hỏa khí hình ống đặc biệt nổi bật. Trung kỳ triều Minh, phật lang cơ và hồng di đại pháo và các hỏa khí tây dương khác truyền đến, khiến triều Minh học hỏi ưu điểm nhắm mục tiêu của chúng, để cải thiện tính năng hỏa khí tự sản xuất. Đương thời, thời đại binh khí lạnh của Trung Quốc sắp kết thúc, thời đại hỏa khí đang đến, dù Trung Quốc có cơ hội bắt kịp trình độ kỹ thuật hỏa khí phương Tây, song quá trình này bị gián đoạn do triều Minh diệt vong<ref>{{chú thíchcite book|author=邢涛|title=《中国通史·<第二十一章·集权下的统治·明朝的军事建设·热兵器的兴盛>》|publisher=北京出版社|location=北京|isbn=9787200050646|pages=第143页|coauthors=纪江红|language=中文|date=2003年10月1日}}</ref>。
 
Có học giả chỉ ra rằng, Trung Quốc sử dụng binh khí nóng trước phương Tây hai thế kỷ, song đến thế kỷ 15 kỹ thuật bắt đầu bị người Bồ Đào Nha vượt qua, về sau quân Thanh lợi dụng kỹ thuật và kinh nghiệm của triều Minh và phương Tây, nhiều lần cải thiện và chế tạo hỏa khí có uy lực hơn so với triều Minh, đến thời [[loạn Tam Phiên]], kỹ thuật binh khí nóng của Trung Quốc quay lại tiếp cận trình độ các quốc gia Tây Âu<ref>梁柏力《被誤解的中國:看明清時代和今天》,中信出版社,第111-114頁</ref>.
Dòng 328:
Đầu thời Minh, do chiến tranh kéo dài trong nhiều năm cộng thêm lạm phát, hơn nữa Nguyên Huệ Tông trước đây cho tăng cường lao dịch để trị thủy, khiến kinh tế quốc gia tiến đến bờ sụp đổ. Minh Thái Tổ thực thi hành chính sách nghỉ ngơi lại sức và di dân khai hoang, còn thi hành chính sách đồn điền, diện tích quân điền chiếm gần một phần mười đất canh tác toàn quốc<ref name="明朝農業" />. Ngoài ra, thương đồn cũng tương đối phổ biến, chính phủ dùng giấy độc quyền buôn bán muối (gọi là diêm dẫn) để trao đổi, thu hút thương nhân đem lương thực đến biên cương nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực biên phòng. Đây không phải là phương thức lấy hàng đổi hàng, mà là yêu cầu diêm thương giao tiền trước rồi đợi đến khi muối khô mới được cấp muối. Tuy nhiên, do thuế thu không đủ nên họ đưa muối mới sản xuất ra ngoài bán riêng, kéo dài thời gian giao muối cho diêm thương chính quy, khiến cho diêm thương giao xong tiền phải mất 3-5 năm, thậm chí là mười năm sau mới lấy được muối, song lại không thể bỏ thân phận diêm thương làm việc khác mưu sinh nên nhà tan người mất, buôn lậu muối cũng diễn ra trên quy mô lớn<ref name="明朝經濟"/>. Minh Thái Tổ từng phái Quốc tử giám xuống thôn quê chỉ đạo xây dựng thủy lợi, đồng thời dùng miễn giảm thu thuế để khuyến khích canh tác. Các biện pháp này khiến các khu vực từng chịu tổn thất nặng nề trong chiến loạn khôi phục sinh khí, khiến kinh tế triều Minh được khôi phục nhanh chóng<ref name="明朝農業"/>.
 
Kinh tế thời Minh vẫn lấy kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc làm chủ yếu. Nông nghiệp thời Minh bất kể là sản lượng hay công cụ sản xuất đều ở mức cao hơn triều đại trước. Các loại cây trồng cao sản có nguồn gốc từ [[châu Mỹ]] như [[khoai lang]], [[bí ngô]], [[khoai tây]], [[ngô]], [[sợi bông|bông]] dần được đưa đến Trung Quốc trong thế kỷ 16, trong đó bông được trồng đặc biệt phổ biến. Ngoài ra, khoai lang và ngô là các cây trồng tương đối đễ dàng, có thể trồng ở các khu vực có thổ nhưỡng tương đối khá cằn cỗi, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi mà nhu cầu lương thực ngày càng tăng trong hai thời đại Minh-Thanh<ref name="明朝經濟">{{chú thíchcite book|author=姜公韜|title=《中國通史 明清史》|chapter=第七章 五百年社會文化的掠影|page=第119頁-第126頁|isbn=9787510800627|publisher=九州出版社|date=2010-1}}</ref>. Những năm Vạn Lịch tổng diện tích đất canh tác ước đạt quá bảy triệu khoảnh, tạo cơ sở bền vững cho tăng trưởng nhân khẩu đều đặn từ thời Vạn Lịch. Thời Nam Tống, có lưu hành câu nói "Tô-Thường được mùa, thiên hạ no đủ", về sau do cư dân thành thị gia tăng nhanh chóng tại khu vực hạ du Trường Giang, cộng thêm khu vực trung du Trường Giang được khai thác phát triển nhanh chóng, đến thời kỳ giữa và cuối triều Minh, đã chuyển biến thành "Hồ Quảng được mùa, thiên hạ no đủ", ý là khu vực sản xuất lương thực chủ yếu đương thời đã chuyển đến khu vực Hồ Quảng, chính là khu vực Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay. Từ cuối thời Minh về sau, lương thực của Hồ Quảng bắt đầu được vận chuyển đường dài đến các khu vực [Giang-Chiết, [[Phúc Kiến|Mân]]-Quảng để bán, khiến nông dân địa phương bắt đầu chuyển đổi sang loại cây trồng thương phẩm<ref name="明朝經濟"/>. Nông nghiệp mang tính thương nghiệp phát triển, cộng thêm xuất hiện giao thông đường dài, đều mang đến lợi ích cho sự phát triển công thương nghiệp<ref name="明朝農業"/>.
 
===Thủ công nghiệp===