Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ấn Độ giáo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Buitrungnghia1 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của TuanminhBot
n →‎Ấn giáo Thấp-bà: replaced: nguyên lí → nguyên lý (2), Nguyên lí → Nguyên lý using AWB
Dòng 37:
Thấp-bà giáo (''śivaism'') là một tôn giáo phần lớn theo thể hệ nhất thần, nhưng một vài nhánh thiên về mối quan hệ nhị nguyên Thấp-bà (''śiva'')-Tính lực (''śakti'') hoặc thừa nhận tính đa nguyên với nhiều linh hồn vĩnh cửu. Tôn giáo này cũng xuất phát từ mối quan hệ với một vị thần đã được nhắc đến trong thánh điển [[Phệ-đà]] là Lỗ-đặc-la (zh. 嚕特羅, sa. ''rudra''). Lỗ-đặc-la được miêu tả là hung bạo, nguy hiểm. Ông cai quản lĩnh vực bệnh tật và chữa trị; mũi tên của ông là những điều âu lo của các vị thần khác và những cơn bão tố, hiện thân của thần gió (Phong thần 風神, ''marut'', ''rudra''), được xem là những hiện tượng tuỳ tòng ông. Thấp-bà (''śiva''), dịch ý là "cát tường", "thiện", là một uyển ngữ được dùng để hoãn hoà vị thần hung tợn này. Ông được gọi là Tự tại chủ (zh. 自在主, sa. ''īśvara''), Đại tự tại chủ (zh. 大自在主, sa. ''maheśvara'').
 
Theo giáo lí cao nhất thì Thấp-bà dưới dạng tối cao không mang bất cứ một thuộc tính nào (''nirguṇa'') và đồng nhất với Phạm thiên (sa. ''brahman'') của hệ thống Phệ-đàn-đa (sa. ''vedānta''). Về khía cạnh nhân cách thì Thấp-bà có thuộc tính (''saguṇa''), bao hàm hai nguyên nam cũng như nữ. Nguyên nữ được thể hiện qua tính lực (''śakti''), tức là nhân tố chủ động trong nhận thức, ý muốn, hành động, tự che đậy và ban ân của Thượng đế. Trong thần thoại, nguyên nữ được xem là vợ của thần Thấp-bà, dạng hiền hậu tịch tĩnh là Tuyết sơn thần nữ (zh. 雪山神女, sa. ''pārvatī''), dạng phẫn nộ hoặc tàn phá là Đỗ-nhĩ-ca (zh. 杜爾嘉, sa. ''durgā'').
 
Chính thần Thấp-bà lại xuất hiện trong thần thoại như một Du-già sư hoặc một vị thần hàng phục yêu quái, tàn phá thế giới. Hai hình tượng có liên hệ đến con đường giải thoát của tín đồ Thấp-bà giáo. Con đường xuất phát từ việc tôn xưng thần Thấp-bà, qua thiền quán cho đến sự giải thoát khỏi những trói buộc (sa. ''pāśa'') của tâm linh cá biệt (sa. ''paśu'') mang hình tướng trong thế gian. Sau đó, tâm linh này đạt tâm thức tối thượng của đấng tối cao (sa. ''pati''). Các trói buộc phát sinh từ sự vướng mắc vào vật chất và qua đó, năng lực tri thức và hoạt động vô biên của tâm thức tối thượng bị những nhân tố như sau hạn chế tối đa: Thời gian (''kāla''), không gian và quy luật nhân quả (''niyati''), giới hạn của cảm nhận (''rāga''), giới hạn của tri thức (''vidyā'') và khả năng hành động (''kalā''). Qua sự vây phủ làm u tối tâm thức (''tirobhāva'') nên dị biệt và đa dạng của các hiện tượng xuất hiện, thay thế cái đơn nhất trong tâm thức tối cao của tất cả những hiện hữu. Diệt trừ cái thiên hình vạn trạng này - và như thế cũng có nghĩa là diệt trừ thế gian qua ân sủng của thần Thấp-bà - được thực hiện bằng sự bộc phát của tri thức giải thoát, phá huỷ tấm màn vô minh, giải phóng linh hồn của tín đồ ra khỏi [[vòng sinh tử]].