Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Tự Nguyên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
n replaced: : → : (3), của của → của, xử lí → xử lý (2) using AWB
Dòng 108:
 
=== Thời Trang Tông ===
Mùa xuân năm [[924]], quân [[Khiết Đan]] tấn công Lư Long, tiến sâu vào tận Ngõa Kiều quan<ref>Nay thuộc địa phận [[Bảo Định]], [[Hà Bắc]], [[Trung Quốc]]</ref>. Trang Tông cử Lý Tự Nguyên dẫn quân chống lại Khiết Đan, cùng [[Hoắc Ngạn Uy]] (khi ấy đã hàng Đường) làm phó. Tuy nhiên, lực lượng [[Khiết Đan]]] sớm rút lui, nhà vua triệu Lý Tự Nguyên về kinh - và để lại Đoàn Ngưng - lúc này được ban tên [[Lý Thiệu Khâm]] - trấn giữ quan. Không lâu sau đó, lại nhận được tin Khiết Đan xâm phạm, nhưng Lý Tự Nguyên được lệnh giữ quân ở Hưng châu để dò xét động tĩnh của Khiết Đan, trong khi [[Lý Tùng Kha]] và [[Lý Thiệu Bân]] chỉ huy kị binh trấn giữ quan ải chống lại Khiết Đan. Trong thời gian đó, Lý Tự Nguyên cũng như các tướng khác, sợ hãi bọn thái giám và con hát gièm pha nói xấu mình trước mặt Trang Tông, nên dâng biểu xin nghỉ hữu, Trang Tông không theo.<ref name=ZZTJ273>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷273|vol. 273]].</ref>
 
Mùa hạ năm [[924]], tướng ở An Nghĩa (trước kia là Chiêu Nghĩa) [[Dương Lập]], người vốn được Lý Kế Thao tin tưởng (Lý Tồn Húc đã xử tử Lý Kế Thao sau khi ông ta tiêu diệt [[Hậu Lương]]), đã nổi loạn chiếm giữ Lộ châu. Trang Tông cử Lý Tự Nguyên chỉ huy quân đội đánh Dương Lập, cùng với [[Nguyên Hành Khâm]], khi đó đã đổi tên thành Lý Thiệu Vinh, và [[Trương Đình Uẩn]] làm phó tướng. Trương nhanh chóng vào thành Lộ châu bắt giữ Dương Lập và những kẻ dưới trướng của y, trước khi Lý Tự Nguyên và Lý Thiệu Vinh đến (Bọn Dương Lập đi giải về [[Lạc Dương]] - kinh đô [[Hậu Đường]] và bị xử tử). Sau chiến dịch này, Lý Tự Nguyên được phong làm Tiết độ sứ Tuyênn Vũ và tướng chỉ huy quân đội Hán và phi Hán thay cho [[Lý Tồn Thẩm]] vừa qua đời.<ref name=ZZTJ273/>
Dòng 128:
=== Tiến về Lạc Dương và xưng đế ===
 
Lý Tự Nguyên thống lĩnh quân đội tiến về Lạc Dương. Ban đầu, ông chỉ ở tư gia của mình trong thành và ngăn không cho quân sĩ cướp bóc; ông cũng thu thập di thể của Trang Tông để mai táng. Khi các tướng khuyên ông chiếm lấy ngai vàng, ông từ chối, và nói với [[Chu Thủ Ân]] rằng ông nên đối xử tôn trọng với các phi tần của Trang Tông, và chuẩn bị chào đón Lý Kế Nghiệp trở về kế vị, và rằng ông sẽ trở lại Thành Đức sau lễ tang của Trang Tông và Lý Kế Nghiệp lên ngôi. Tuy nhiên, sau khi được các tướng thúc giục nhiều lần, ông tự xưng là [[nhiếp chính]]. [[Lý Thiệu Chân]] và [[An Trọng Hối]] tin rằng tình hình bất lợi, bèn kiếm hai người em của Trang Tông là Thông vương [[Lý Tồn Xác]] và Nhã vương [[Lý Tồn Kỉ]] rồi giết đi. Theo lệnh của Lý Tự Nguyên, Lưu hoàng hậu, lúc đó đã trốn sang thái Nguyên, bị giết chết; và quân sĩ giết tiếp hai người em trai của Trang Tông là Thân vương [[Lý Tồn Ác]] và Vĩnh vương [[Lý Tồn Bá]]. Nhiều hoàng thân khác không thể tìm thấy được, chỉ có em trai của Trang Tông là Ung vương [[Lý Tồn Mỹ]] vì ốm yếu bệnh tật nên được tha. Khi bắt được [[Lý Thiệu Vinh]], ông đích thân tới thẩm vấn, hỏi rằng: "Ta trước nay không phụ bạc gì nhà ngươi; tại sao nhà ngươi giết con ta?". Lý Thiệu Vinh nhìn chằm vào ông và đáp lại :"Tiên đế ngày trước cũng có phụ bạc gì nhà người?" Lý Tự Nguyên giết chết ông ta và đổi tên ông ta trở lại là [[Nguyên Hành Khâm]].<ref name=ZZTJ275/>
 
Đứng trước việc [[Lý Kế Nghiệp]] đang đến gần, Lý Tự Nguyên quyết định đưa quân chống lại. Ông sai [[Thạch Kính Đường]] và [[Lý Tùng Kha]] đưa quân đến trấn ở Thiểm châu <ref>陝州, nay thuộc [[Tam Môn Hiệp]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]]</ref>, và Hà Trung<ref>河中, nay thuộc [[Vận Thành]], [[Sơn Tây]], [[Trung Quốc]]</ref>, chặn đường về của Lý Kế Nghiệp. Ngay sang đó, đoàn người hộ tống Lý Kế Nghiệp đều quay lưng với anh ta, và anh ta buộc phải tự sát. Tướng [[Nhâm Viên]] nắm quyền chỉ huy quân đội, và gặp quân của Thạch Kính Đường, họ tuyên bố ủng hộ Lý Tự Nguyên.<ref name=ZZTJ275/>
Dòng 136:
== Hoàng đế ==
=== Chính trị ===
Đầu năm [[927]], Minh Tông lập [[An Trọng Hối]] làm Xu mật sứ kiêm Thị trung, và [[Khổng Tuần]] làm Bình chương sự. [[Trịnh Giác]] và [[Nhâm Viên]] cũng là tể tướng, và Nhâm nắm giữ ba cơ quan tài chính (thuế, ngân khố và muối sắt). Thừa tướng thời Trang Tông là [[Đậu Lư Cách]] và [[Vi Thuyết (Hậu Đường)|Vi Thuyết]] ban đầu vẫn đựa tại chức, nhưng sau đó bị đuổi khỏi triều đình vì cáo buộc tham ô.) Vì Minh Tông bị mù chữ, nên An Trọng Hối có nhiệm vụ đọc các biểu tấu từ các đại thần gửi lên cho ông nghe, nhưng bản thân An cũng không thể biết hết các mặt chữ. Vì thế, theo đề nghị của An, triều đình cho lập ra Đoan Minh Điện, và các học sĩ ở đó được giao nhiệm vụ đọc và trợ giúp xử các tấu chương cho hoàng đế, với [[Phùng Đạo]] và [[Triệu Phụng]] đứng đầu. Vì cái tên Lý Tự Nguyên chứa hai mẫu tự được dùng tương đối phổ biến, và nhiều khi phải dùng không thể kiêng được; ông tìm cách giảm bớt khó khăn trong việc kiêng húy cho thần dân bằng cách đổi tên Đản vào dịp Tết năm [[927]]. Ngoài ra, nhiều vị tướng bị Hậu Đường Trang Tông ban tên, đến đây họ xin được trở lại tên cha sinh mẹ đẻ, ông đều chuẩn tấu.<ref name=ZZTJ275/>.
 
Cuối năm [[927]], [[Dương Phổ]], quốc vương nước Ngô ở miền đông nam, vốn trước đây có quan hệ tốt với [[Hậu Đường]], xưng đế. An Trọng Hối đề nghị phạt Ngô, nhưng Minh Tông không theo. Tuy nhiên, đầu năm [[928]], An trục xuất sứ giả nước Ngô, hai bên từ đó tuyệt giao với nhau. Trong thời gian này, Lý Tự Nguyên từng đến thăm Nghiệp Đô (tên cũ chính là Hưng Đường), nhưng quân đội triều đình không muốn đi đâu kể từ sau chuyến đi từ Lạc Dương đến Biện, và kết quả những tin đồn lại được dịp lan đi. Minh Tông nghe được việc ấy, nên không đi Nghiệp Đô nữa.<ref name=ZZTJ276/>.
Dòng 156:
Trong khi đó, Minh Tông tìm cách thiết lập quan hệ hữu hảo với [[Khiết Đan]]. Sau khi lên ngôi, ông cử [[Diêu Khôn]] đi sứ [[Khiết Đan]] để thông báo cho Hoàng đế Khiết Đan [[Liêu Thái Tổ]] về cái chết của Hậu Đường Trang Tông. Hoàng đế Khiết Đan tìm cách bắt bẻ, trách cứ Diêu và hỏi tại sao Lý Tự Nguyên là thần tử mà dám cướp ngôi vua, nhưng Diêu đáp lại bằng cách dẫn ra quá khứ có phần tương tự của hoàng đế [[Khiết Đan]], khiến ông ta đứng họng. Tuy nhiên, hoàng đế [[Khiết Đan]] lại ra yêu cách phải cắt nhượng bờ bắc [[Hoàng Hà]] cho ông ta. [[Diêu Khôn]] đáp rằng ông không có thẩm quyền làm điều đó, hoàng đế Khiết Đan bắt giam sứ giả, và lại yêu cầu cắt nhượng ba trấn Lư Long, Thành Đức, Nghĩa Vũ. Khi Diêu Khôn từ chối, liền bị câu thúc ở mạn bắc, và hai bên không thể đi đến thỏa thuận hòa bình nào.<ref name=ZZTJ275/>
 
Sau khi Minh Tông lên ngôi, lại nảy sinh vấn đề giữa triều đình với Tiết độ sứ Kinh Nam<ref>荊南, trị sở nay thuộc [[Kinh Châu]], [[Hồ Bắc]], [[Trung Quốc]]</ref> [[Cao Quý Hưng]], ông này trên thực tế đã từ lâu bán li khai với chính quyền trung ương. Quý Hưng dâng biểu xin lấy đất ba châu Quý, Trùng Vạn<ref>Ba châu này nay đều thuộc địa phận thành phố [[Trùng Khánh]]</ref>.
 
Sau đó [[Cao Quý Hưng]] còn buộc triều đình không được cử người đến làm thứ sử để âm mưu chiếm cứ lâu dài miền đông nam nước Thục, nhưng Minh Tông không đồng ý. Sau đó Quý Hưng phái binh công phá Quỳ châu. Khi Minh Tông bổ nhiệm [[Tây Phương Nghiệp]] làm thứ sử Quỳ châu, Quý Hưng tìm cách ngăn cản. Khi áp nha [[Hàn Củng]] đem vàng bạc châu báu của triều đình Tiền Thục xuôi dòng Trường Giang để đến Lạc Dương, Cao Quý Hưng sai binh tập kích giết chết Hàn Củng ở cửa Tam Hiệp, cướp lấy tài sản. Minh Tông sai sứ gặng hỏi, Quý Hưng đáp trả một cách vô lễ, khiến Minh Tông đại nộ, quyết định thảo phạt Kinh Nam. Quân đội Hậu Đường do Tiết độ sứ Sơn Nam Đông Đạo<ref>Trị sở nay thuộc [[Tương Phàn]], [[Hồ Bắc]], [[Trung Quốc]]</ref> [[Lưu Huấn]] và tiết độ sứ Trung Vũ<ref name="ReferenceA">忠武, trị sở nay thuộc [[Hứa Xương]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]]</ref> [[Hạ Lỗ Kỳ]] cùng nhau bao vây thành Giang Lăng, nhưng rồi do thủy thổ không hợp, binh lính sinh bệnh rất nhiều, đường vận chuyển lại bị cắt đứt, quân triều đình phải lui, mặc dù tướng [[Tây Phương Nghiệp]] lấy lại được đất ba châu.
 
Cuối năm [[928]], [[Cao Quý Hưng]] chết, con là [[Cao Tùng Hối]] lên kế nhiệm. Tùng Hối không ủng hộ chính sách kháng Đường của phụ thân, và tìm cách thông qua chư hầu của Hậu Đường là Sở vương [[Mã Ân]], cùng Tiết độ sứ Sơn Nam Đông Đạo [[An Nguyên Tín]], ông xin quy phục [[nhà Đường]]. Minh Tông chuẩn thuận, phong Tùng Hối là Tiết độ sứ Kinh Nam, và chấm dứt chiến dịch chống Kinh Nam.<ref name=ZZTJ276/>.
Dòng 170:
[[An Trọng Hối]] tìm cách kiềm chế họ bằng cách gửi người đến hai trấn làm phó sứ để giám sát hai tướng ([[Lý Nghiêm]] đến Tây Xuyên và [[Chu Hoằng Chiêu]] đến Đông Xuyên), khiến tình hình thêm căng thẳng. Mạnh Tri Tường giết chết [[Lý Nghiêm]] và [[Chu Hoằng Chiêu]] bị đuổi về Lạc Dương. Tuy nhiên, hai bên chưa lập tức trở mặt, và Minh Tông cho phép vợ của Mạnh Tri Tường, cũng tức là em gái của Trang Tông là [[Quỳnh Hoa trưởng công chúa (Hậu Đường)|Quỳnh Hoa trưởng công chúa]] và con bà là [[Mạnh Sưởng (Hậu Thục)|Mạnh Nhân Tán]] trở về đất Tây Xuyên đoàn tụ với [[Mạnh Tri Tường]].
 
Trong lúc đó, Vương Đô tỏ ra lo sợ về thái độ của triều đình trung ương đối với mình; bởi vì Hậu Đường Minh Tông, theo ý của [[An Trọng Hối]], đã quản lí các phiên trấn chặt chẽ hơn thời Trang Tông. Ngoài [[Vương Kiến Lập]], ông ta cũng gửi mật thư cho [[Hoắc Ngạn Uy]], Tiết độ sứ Bình Lư <ref>平盧, trị sở nay thuộc [[Duy Phường]], [[Sơn Đông]], [[Trung Quốc]]</ref>); [[Phùng Tri Ôn]], Tiết đọ sứ Trung Vũ <ref>忠武, trị sở nay thuộc [[Hứa Xương]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]]<name="ReferenceA"/ref>); [[Mạnh Tri Tường]], và [[Đổng Chương]] để thiết lập một liên minh chống lại sự uy hiếp từ triều đình. Ông ta cũng tìm cách lôi kéo [[Vương Yến Cầu]] (tức [[Đỗ Yến Cầu]], đã trở lại tên thật), Tiết độ sứ Quy Đức <ref>歸德, trị sở nay thuộc [[Thương Khâu]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]]</ref>), người đang chỉ huy quân đội phía bắc chống lại sự xâm lấn của [[Khiết Đan]]. Nhưng [[Vương Yến Cầu]] báo sự việc về cho triều đình, Minh Tông ra lệnh thảo phạt Vương Đô, quân triều đình trao cho Yến Cầu chỉ huy. Yến Cầu xua quân bao vây Định châu, nhưng chỉ giữ thế bao vây và triệt đường lương thực để cô lập thành chứ không đánh vội. Quân [[Khiết Đan]] tìm cách cứu [[Vương Đô]] nhưng thất bại. Đầu năm [[929]], tướng của [[Vương Đô]] [[Mã Nhượng Năng]] mở cửa thành nghiêng tiếp quân triều đình; [[Vương Đô]] tự tử, kết thúc chiến dịch.<ref name=ZZTJ276/>
 
Lúc này, cả [[Mạnh Tri Tường]] [[và]] [[Đổng Chương]], rất lo lắng việc quân triều đình đang tập trung ở khu vực lân cận Lưỡng Xuyên là Chiêu Vũ<ref>昭武, trị sở nay thuộc [[Quảng Nguyên]], [[Tứ Xuyên]], [[Trung Quốc]]</ref>; Bảo Ninh <ref>保寧, trị sở nay thuộc [[Lãng Trung]], [[Tứ Xuyên]], [[Trung Quốc]]</ref>); và Vũ Tín <ref>武信, trị sở nay thuộc [[Toại Ninh]], [[Tứ Xuyên]], [[Trung Quốc]]</ref>. Năm [[931]], họ chính thức tạo phản.<ref name=ZZTJ277/> (Tuy nhiên, theo sử gia hiện đại [[Bá Dương]], chính là do [[An Trọng Hối]] buộc hai tướng phải làm phản để có cớ giết họ.)<ref>''[[Bá Dương]] Edition of the Zizhi Tongjian'', quyển. 68 (930).</ref> Lý Tự Nguyên triệu tập quân đội, giao quyền chỉ huy cho [[Thạch Kính Đường]], thẳng tiến về Lưỡng Xuyên. Dù cho có những thành công ban đầu, quân đội triều đình bị sa lầy trong cuộc đối đầu với hai trấn, mắc kẹt tại Kiếm châu (Quảng Nguyên hiện nay). Quân đội Lưỡng Xuyên nhanh chóng kiểm soát Chiêu Vũ, Bảo Ninh, Vũ Tín và Vũ Thái <ref>武泰, trị sở nay thuộc [[Trùng Khánh]]</ref>). Cuối năm [[930]], Trọng Hối đề nghị được ra chiến trường, nhà vua đồng ý. Tuy nhiên, sau khi Trọng Hối đi rồi, thì [[Thạch Kính Đường]], vốn từ đầu đã không ủng hộ chiến dịch, đã dâng biểu nói lên những bất cập của cuộc viễn chinh. [[Chu Hoằng Chiêu]], từng là thân tín của [[An Trọng Hối]], hiện đang là Tiết độ sứ Phượng Tường <ref>鳳翔, trị sở nay thuộc [[Bảo Kê]], [[Thiểm Tây]], [[Trung Quốc]]</ref>), cũng dâng biểu buộc tội Trọng Hối lập mưu chiếm giữ quân đội tây chinh. Nhà vua do đó triệu hồi Trọng Hồi, cách chức thủ tướng của ông ta, và giáng làm Tiết độ sứ Hộ Quốc<ref>護國, trị sở nay thuộc [[Vận Thành]], [[Sơn Tây]], [[Trung Quốc]]</ref>. Sau đó An xin được trí sĩ, nhà vua cho cháu là Dương vương [[Lý Tùng Chương]] thay ông ta là Tiết độ sứ Hộ Quốc, nhưng Lý Tòng Chương sau đó, với sự cho phép của nhà vua, đã giết chết [[An Trọng Hối]] và phu nhân của ông ta (Sau khi Trọng Hối thất thế, Minh Tông khôi phục chức tước cho [[Lý Tùng Kha]] và [[Tiền Lưu]], đổ lỗi cho Trọng Hối làm điều bậy bạ khiến [[Tiền Lưu]], [[Đổng Chương]] và [[Mạnh Tri Tường]] bất mãn.)<ref name=ZZTJ277/>
Dòng 180:
Năm [[933]], Tiết độ sứ Định Nan<ref>定难, trị sở nay thuộc [[Tĩnh Biên]], [[Thiểm Tây]], [[Trung Quốc]]</ref> là [[Lý Nhân Phúc]] (người [[Đảng Hạng]]), vốn cai trị Định Nan một cách bán độc với chính quyền trung ương [[Hậu Đường]], lập liên minh với [[Khiết Đan]]. Nhưng giữa lúc đó Nhân Phúc chết, quân trung ủng hộ con trai ông ta là [[Lý Di Siêu]] làm lưu hậu. Nhà vua quyết định nhân cơ hội này thu phục lại Định Nam, bổ nhiệm [[An Trọng Tấn]], Tiết độ sứ Chương Vũ<ref>彰武, trị sở nay thuộc [[Diên An]], [[Thiểm Tây]], [[Trung Quốc]]</ref> làm Tiết độ sứ Định Nan, và đổi [[Lý Di Siêu]] làm Tiết độ sứ Chương Vũ. Đoán rằng Di Siêu sẽ kháng mệnh, Minh Tông cử [[Dược Ngạn Trù]], tiết độ sứ Phượng Tường chỉ huy quân sĩ hộ tống [[An Trọng Tấn]] đến Định Nan. Quả nhiên [[Lý Di Siêu]] kháng mệnh, Ngạn Trù bèn xua quân bao vây Hạ châu, thủ phủ Định Nan quân <ref>夏州, trị sở nay thuộc [[Ngọc Lâm]], [[Thiểm Tây]], [[Trung Quốc]]</ref>), nhưng thành phố phòng thủ kiên cố, và quân Định Nan thường xuyên đánh phá đường chuyển lương của quân triều đình. Khi [[Lý Di Siêu]] dâng thư xin thần phục, quân [[Hậu Đường]] thối lui. Người ta cho rằng từ thời điểm đó, Định Nan ngày càng coi thường chính quyền trung ương. Vì nhà vua lúc này đã mắc bệnh đột quỵ nhẹ, cùng với thất bại ở Định Nan, những tin đồn không tốt lan nhanh trong quân đội. và Minh Tông tìm cách trấn an họ bằng cách ban thưởng hậu hĩnh, hành động này khiến quân sĩ trở nên kiêu ngạo hơn.<ref name=ZZTJ278/>
 
Không lâu sau đó, viên quan Thái bộc đã trí sĩ là [[Hà Trạch]], vì muốn trở lại triều đình nên tìm cách lấy lòng [[Lý Tùng Binh]], dâng biểu xin hoàng thượng lập Tùng Vinh làm [[hoàng thái tử]] — Minh Tông đọc biểu thấy xúc động vì cho rằng người ta nghĩ ông đã già, ông rớt nước mắt và nói với tả hữu, "Triều thần muốn lập thái tử. Chắc có lẽ đến lúc quả nhân phải lui về ngôi nhà cũ ở Thái Nguyên rồi." Tuy nhiên, biết chuyện này có tầm quan trọng rất lớn đối với đất nước, ông thảo luận với tể tướng và trăm quan. Lý Tùng Vinh lại nhìn nhận vấn đề theo một hướng khác, và ngày [[15 tháng 9]] năm [[933]], anh ta đến thăm Minh Tông, và nói rằng, "Nghe nói có kẻ gian nhân xin lập thần làm thái tử. Thần tuổi nhỏ non dạ, cần phải học hỏi thêm nhiều, chưa muốn giữ cái danh đó." Sau khi thoái triều, Tùng Vinh đến gặp [[Phạm Diên Quang]] và [[Triệu Diên Thọ]], bảo rằng :"Bọn chúng mày muốn lập tao làm thái tử để tước hết binh quyền của tao, rồi giam lỏng tao trong Đông cung chăng." Biết rằng cả Minh Tông và Tùng Vinh đều không muốn lập thái tử, Diên Quang và Diên Thọ tấu rằng chưa nên lập tự, và Lý Tùng Vinh được phong làm Thiên hạ binh mã nguyên soái.<ref name=ZZTJ278/>
 
Do lo sợ Lý Tùng Vinh, Phạm Triệu hai tướng tiếp tục đề nghị từ chức Xu mật sứ, nhưng nhà vua không theo, nghĩ rằng họ từ bỏ ông. Mùa thu năm [[933]], phu nhân của Diên Thọ là Tề quốc công chúa (con gái của Minh Tông) lại cầu xin cho chồng, do đó Diên Thọ được dời làm Tiết độ sứ Tuyên Vũ, và [[Chu Hoằng Chiêu]], đang làm Tiết độ sứ Sơn Nam Đông Đạo, lên thay làm Xu mật sứ. Cuối năm đó, [[Triệu Diên Quang]] cũng rời chức và được cử làm Tiết độ sứ Thành Đức, [[Phùng Vân (Hậu Đường)|Phùng Vân]] lên thay ông ta.<ref name=ZZTJ278/>
Dòng 187:
Ngày [[5 tháng 12]] năm [[933]], nhà vua sau một chuyến du hành ngoài trời rét, đã lâm bệnh. Hôm sau, hoàng trưởng tử [[Lý Tùng Vinh]] đến thỉnh an, [[Vương thục phi (Hậu Đường Minh Tông)|Vương thục phi]] báo rằng "Tùng Vinh đã tới" nhưng nhà vua không hồi đáp. Tùng Vinh ra khỏi cung và nói với tả hữu rằng vua cha không còn nhận ra ông ta nữa, và rời khỏi đó. Nhà vua tỉnh dậy vào nửa đêm, sau đó thổ huyết. Được tả hữu thông báo chuyện ngày hôm đó, ông đáp: "Trẫm không biết". Ông dùng một bát cháo và cảm thấy khỏe lại vào sáng hôm sau, nhưng Tùng Vinh lại xưng bệnh không đến thỉnh an.<ref name=wdsj15>{{harvnb|''Ngũ Đại sử''|loc=[http://zh.wikisource.org/wiki/新五代史/卷15 quyển. 15.]}}</ref>
 
Lý Tùng Vinh còn có một kế hoạch khác. Lo sợ rằng ngôi vua sẽ thuộc về [[Lý Tùng Hậu]], người được Minh Tông đánh giá rất cao, Tùng Vinh quyết định ra tay trước nhằm khống chế triều đình. Hôm sau, nhà vua được tin con trai ông đã đem quân đánh vào cửa cung. Ông cảm thấy hoài nghi, chỉ vào ngón tay của mình và khóc rất lâu. Trước mặt [[Lý Trọng Cát]], con trai của con trai nuôi ông là [[Lý Tùng Kha]], ông so sánh hai người con: "Sự thực rằng cha ngươi với ta đều có một quá khứ chẳng mấy nổi bật, nhưng rồi lại nổi lên tranh giành thiên hạ. Nhiều lần nó đã cứu ta thoát khỏi nguy hiểm. Than ôi, cái chuyện tày trời mà Tùng Vinh đã làm thực là nham hiểm!" Ông nói với tả hữu cứ tự xử mọi sự..<ref name=wdsj15 />
 
Sau một ngày giao tranh, quân triều đình giết chết Lý Tùng Vinh cùng vợ và con trai lớn của anh ta. Nhà vua được tin báo, xúc động ngã xuống ghế. Các tướng xin được giết tiếp cậu con trai thứ hai của Tùng Vinh đang được nuôi trong thẩm điện. Minh Tông nói :"Đó là một chuyện ác đức", nhưng cuối cùng cũng không thể cứu được tiểu hoàng tôn.<ref name=zztj278 /> Khi [[Phùng Đạo]] và triều thần đến thỉnh an, Minh Tông nghẹn ngào mà nói rằng: "Quả nhân thấy ngượng khi tiếp kiến các khanh trong lúc chuyện nhà đang bi thẩm như vầy." Ông cho triệu Lý Tùng Hậu về kinh, nhưng Tùng Hậu chưa kịp đến nơi thì Minh Tông đã qua đời vào ngày [[15 tháng 12]], Lý Tùng Hậu kế vị trước linh cữu, là [[Hậu Đường Mẫn Đế]].<ref name=wdsj15 />
 
== Gia quyến ==
Dòng 253:
*[[Lý Tùng Thẩm]], con trai trưởng,<ref name=wds51>{{harvnb|''Ngũ Đại sử''|loc=[http://zh.wikisource.org/wiki/舊五代史/卷51 quyển. 51.]}}</ref> đổi từ tên [[Lý Kế Cảnh]] trước khi bị giết năm [[926]]. [[Hậu Đường]] trang ông nhận ông làm con nuôi. Nguyên danh là Lý Tòng Cảnh.
*[[Lý Tùng Vinh]], con trai thứ hai,<ref name=wds51 /> mẹ là Hạ thị. Được tấn phong làm Tần vương năm [[928]] và bị giết năm [[933]] cùng vợ là Lưu thị,<ref name=zztj278 /> con trai Lý Trọng Quang<ref name=wds44 /> và một cậu con trai khác.
*[[Lý Tùng Hậu]], sinh năm [[914]], mẹ là Hạ thị. Tấn phong Tống vương năm [[930]] và kế vị ngai vàng sau cái chết của của Minh Tông năm [[933]]. Được sử gọi là [[Hậu Đường Mẫn Đế]], chỉ cai trị năm tháng trước khi bị anh nuôi là [[Lý Tùng Kha]] nổi dậy và cướp ngôi. Ông chạy trốn khỏi kinh thành và bị giết tại Vệ châu cùng vợ là [[Khổng hoàng hậu]] và các hoàng tử [[Lý Trọng Triết]]<ref name=wds44 /> và ba hoàng tử khác.<ref name=wds45>{{harvnb|''Ngũ Đại sử''|loc=[http://zh.wikisource.org/wiki/舊五代史/卷45 quyển 45.]}}</ref>
*[[Lý Tùng Ích]] chào đời năm [[931]], không rõ mẹ ruột là ai, nhưng Minh Tông trao cho Vương thục phi nuôi dưỡng. Được tấn phong Hứa vương năm [[933]] rồi Tuân quốc công năm [[939]] dưới [[Hậu Tấn]]. Sau khi [[Hậu Tấn]] bị [[Khiết Đan]] tiêu diệt, [[Liêu Thái Tông]] phong Lý Tùng Ích làm vua bù nhìn của Trung Quốc trước khi người Liêu lui về mạn bắc. Vị hoàng đế vắn số không thể triệu tập bất kì lộ chư hầu nào bảo vệ mình và đã bị [[Lưu Tri Viễn]] giết chết cùng với mẹ nuôi là Vương thục phi.<ref name=wdsj15 />