Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nghệ sĩ Nhân dân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tony0616 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
n →‎Nghệ sĩ nhân dân Việt Nam: replaced: quản lí → quản lý using AWB
Dòng 18:
Danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân của Việt Nam được trao tặng lần đầu vào năm [[1984]], cho đến nay đã diễn ra 7 đợt trao tặng (1984, 1988, 1993, 1997, 2001, 2007 và 2011). Danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân được trao tặng cùng một lúc với danh hiệu [[Nghệ sĩ ưu tú]] (tương đương với danh hiệu Nghệ sĩ công huân của Liên Xô). Cho đến năm [[2012]], thì đã có 266 nghệ sĩ được trao tặng danh hiệu cao quý này.
 
Khác với danh hiệu của Liên Xô, danh hiệu này được không được trao tặng cho các [[họa sĩ|hoạ sĩ]], [[điêu khắc gia]], [[nhiếp ảnh gia]]... nhưng vẫn được trao tặng cho các hoạ sĩ thiết kế, phục trang, hoá trang..., có vai trò trong các chương trình nghệ thuật. Ngoài các yếu tố về cống hiến, giải thưởng... thì thời gian cần thiết để xét tặng với Nghệ sĩ nhân dân là 20 năm (với diễn viên xiếc, múa là 15 năm), nghệ sĩ ưu tú là 15 năm (diễn viên xiếc, múa là 10 năm). Đa phần những nghệ sĩ được trao tặng là thuộc các cơ quan do nhà nước quản , nhưng vẫn có những nghệ sĩ tự do được trao tặng. Ngoài các nghệ sĩ được trao đợt đầu và một số trường hợp ngoại lệ thì thông thường trước khi trở thành Nghệ sĩ nhân dân phải được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.
 
Người trẻ nhất được trao tặng danh hiệu này là nghệ sĩ piano [[Đặng Thái Sơn]] (26 tuổi) vào đợt 1 (1984). Nhiều nghệ sĩ nhân dân đã được trao tặng [[giải thưởng Hồ Chí Minh]] (như [[Nguyễn Hồng Sến]], [[Thái Ly]], [[Tào Mạt]]...) và [[giải thưởng Nhà nước (Việt Nam)|giải thưởng Nhà nước]].