Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ferdinand III của Thánh chế La Mã”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: replaced: == Tài liệu tham khảo == → ==Tham khảo== using AWB
n →‎Cuộc đời: replaced: kí → ký (2) using AWB
Dòng 23:
 
Sau cái chết của tướng [[Wallenstein]] vào năm 1634, trong khi cuộc [[chiến tranh Ba mươi năm|chiến tranh 30 năm]] hãy còn tiếp diễn, ông nhậm chức Tổng tư lệnh danh dự của Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh, cuối năm đó ông liên kết với người em họ là [[Hoàng tử-Hồng y Ferdinand]] và đánh tan tác quân [[Thụy Điển]] trong [[trận Nördlingen (1634)|trận chiến tại Nördlingen]].
Là một người chủ hoà, năm 1635 ông hiệp ước [[Praha]] với các quốc gia phe Tin Lành.
 
Sau khi vua cha qua đời, ông lên làm [[Đế quốc La Mã Thần thánh|Hoàng đế La Mã Thần thánh]] năm 1637. Tân hoàng đế mong muốn hiệp ước ngừng bắn với nước [[Pháp]] và [[Thụy Điển]], nhưng cuộc chiến vẫn tiếp diễn 11 năm sau đó, kết thúc với [[Hiệp ước Westfalen]] (gồm 2 phần cơ bản là Hiệp ước [[Münster]] với Pháp, Hiệp ước [[Osnabrük]] với Thuỵ Điển), [[Maximilian von und zu Trauttmansdorff]] - một nhà ngoại giao thiên tài đã được Ferdinand II phong chức làm bá tước năm 1623 - chính là người đại diện phe Đế quốc trong hai hiệp ước này.
 
Vào ngày [[20 tháng 2]] năm 1631, vua Ferdinand III cưới người vợ đầu tiên: [[Đại Công nương]] [[Maria Anna xứ Áo]]. Bà là con gái út của vua [[Tây Ban Nha]] là [[Felipe III của Tây Ban Nha|Felipe III]] và [[Margaret xứ Áo (1584-1611)|Margaret xứ Áo]]. Họ là những anh em họ thứ nhất do mẹ của Maria Anna là em gái của vua cha Ferdinand II của Hoàng đế Ferdinand III. Maria Anna xứ Áo đã sinh cho Hoàng đế 6 người con.