Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kim Thái Tổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n replaced: kí → ký , kí" → ký" (2) using AWB
Dòng 55:
Đối với các bộ tộc bị áp bức bóc lột và dân lành Khiết Đan, A Cốt Đả đã chọn chính sách "vỗ về", hơn nữa khích lệ họ yên tâm sản xuất, còn đối với tầng lớp quý tộc Khiết Đan, ông quán triệt chín sách "kháng cự sẽ tiêu diệt, quy phục hưởng khoan hồng". Những người không chống đối, A Cốt Đả đều miễn tội, cho họ giữ nguyên chức vụ cũ. Với những người Hán theo Liêu thì ông lại chọn chính sách thu nạp nhân tài, chọn ra những địa chủ tài giỏi và phần tử tri thức người Hán để tham gia công cuộc xây dựng chính quyền nước Kim. Đối với các nước láng giềng, A Cốt Đả đã thiết lập quan hệ tốt đẹp với [[Cao Ly]], [[Tây Hạ]], [[Bắc Tống]]. Những chính sách được áp dụng ngay từ sau khi lập quốc đã giúp nước Kim củng cố chính quyền và chờ thời cơ tiêu diệt triều Liêu.<ref name="CSTQ"/>
 
A Cốt Đả tuy rất căm hận triều Liêu, nhưng đối với nhà Tống lại có mối quan hệ tốt đẹp, lúc kiến quốc ban đầu từng có hữu ý liên hợp với Tống, chỉ tới các đời đế vương nhà Kim sau này mới đối địch với triều Tống. Theo quyển ''[[Tĩnh Khang bại sử tiên chứng]]'' ghi chép thì người con thứ hai của ông là [[Hoàn Nhan Tông Vọng]] từng nói rằng: "Thái Tổ cấm ta phạt Tống, lời nói vẫn còn bên tai".<ref>[[Tĩnh Khang bại sử tiên chứng]] chi tứ: ''Hoàng tử vị: "Thái Tổ chỉ ngã phạt Tống, ngôn do tại nhĩ, Hoàng đế ngưỡng thể thử ý, cố lệnh ngã muộn tự tiện".''</ref> Nhà Tống theo như minh ước chỉ đòi lại vùng [[Yên Kinh]]<ref>Nay thuộc tây nam Bắc Kinh</ref> với [[Tây Kinh]]<ref name="ReferenceA"/>, đại thần nước Kim là [[Tả Xí Cung]] (thời [[Trương Giác (nhà Kim)|Trương Giác]] chống Kim bị giết) đã khuyên A Cốt Đả không nên trao trả Yên Vân thập lục châu nhưng ông vẫn làm đúng theo điều ước trả lại Yên Kinh, [[Trác Châu]], [[Dịch Châu]], [[Đàn Châu]], [[Thuận Châu]], [[Cảnh Châu]], [[Kế Châu]] trong Yên Vân thập lục châu.<ref>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E9%87%91%E5%8F%B2/%E5%8D%B775 Kim sử], Quyển 75 - Tả Xí Cung truyện: ''Thái Tổ định yến, tòng sơ ước, dĩ dữ tống nhân. xí cung hiến thi lược viết: "quân vương mạc thính quyên yến nghị, nhất thốn san hà nhất thốn kim". Thái Tổ bất thính.''</ref> Trong số đó có Cảnh Châu<ref>Nay thuộc [[Tuân Hóa]], Hà Bắc, đây là Cảnh Châu của Kim, không phải là Cảnh Châu cùng tên của Tống, Cảnh Châu của Tống nay thuộc [[Cảnh (huyện)|huyện Cảnh]], [[Hành Thủy]], Hà Bắc</ref> tuy nằm bên trong Trường Thành nhưng không thuộc mười sáu châu Yên Vân mà [[Thạch Kính Đường]] đã cắt nhường cho Liêu. Dịch Châu<ref>Nay thuộc [[Dịch (huyện)|huyện Dịch]], [[Bảo Định]], Hà Bắc</ref> vào năm [[Thống Hòa (niên hiệu)|Thống Hòa]] thứ bảy nhà Liêu ([[989]]) đoạt từ bên Tống,<ref>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E9%81%BC%E5%8F%B2/%E5%8D%B740 Liêu sử], Quyển 40 - Địa lý chí tứ: ''Thống Hòa thất niên công khắc chi, thăng Cao Dương quân.''</ref> cũng không được tính là một trong mười sáu châu. Hai châu Mạc, Doanh thì sớm được thu hồi và là trị sở phủ Hà Gian của Bắc Tống. Như vậy là bảy châu nằm trong [[Thái Hành Sơn]] thuộc tỉnh [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]] gồm [[Yên Châu|Yên]], [[Trác Châu|Trác]], [[Đàn Châu|Đàn]], [[Thuận Châu|Thuận]], [[Kế Châu|Kế]], [[Mạc Châu|Mạc]], [[Doanh Châu|Doanh]] đều được trả lại cho Tống triều. Chỉ trừ chín châu ngoài Thái Hành Sơn là [[Nho Châu|Nho]], [[Quy Châu|Quy]], [[Vũ Châu|Vũ]], [[Tân Châu|Tân]], [[Úy Châu|Úy]], [[Ứng Châu|Ứng]], [[Hoàn Châu|Hoàn]], [[Sóc Châu|Sóc]], [[Vân Châu|Vân]] còn đang bị hai nước Liêu Kim tranh đoạt nên Kim Thái Tổ không thể trao trả được.
 
==Đối nội==
Dòng 67:
* [[Thánh Mục hoàng hậu (Kim Thái Tổ)|Thánh Mục hoàng hậu]] Đường Quát thị (聖穆皇后唐括氏).
** Con trai thứ 5, nhưng là dòng đích nên coi là con trưởng: [[Hoàn Nhan Tông Tuấn]] (完顏宗峻), tên Nữ Chân là Thằng Quả, về sau được con trai là [[Kim Hi Tông]] Hoàn Nhan Hợp Lạt tôn miếu hiệu là Huy Tông.
** Con trai thứ 7: Phong vương [[Hoàn Nhan Tông Triều]] (完顏宗朝), tên Nữ Chân là Ô Liệt (hay Liệt Bồ Dương Hổ)<ref>[[Tam triều bắc minh hội biên]] quyển 18 ngày 19 tháng 6 năm Tuyên Hòa thứ 5 dẫn "Thần lộc " viết: ''Thái Tổ cửu tử: chánh thất sinh đệ tam tử Thánh Quả, danh Tông Tuấn, [[Kim Hi Tông|Đản]] phụ, đệ thất tử Liệt Bồ Dương Hổ, danh Tông Triều''.</ref>.
** Triệu vương [[Hoàn Nhan Tông Kiệt]] (完顏宗傑), tên Nữ Chân là Một Lý Dã.
* [[Quang Ý hoàng hậu (Kim Thái Tổ)|Quang Ý hoàng hậu]] Bùi Mãn thị (光懿皇后裴滿氏).
Dòng 73:
* [[Khâm Hiến hoàng hậu]] Hột Thạch Liệt thị (欽憲皇后紇石烈氏).
** Con trai thứ 2: Tống vương [[Hoàn Nhan Tông Vọng]] (完顏宗望), tên Nữ Chân là Oát Li Bất.
** Con trai thứ 6<ref>Căn cứ [[Tùng mạc kỉ văn]] của [[Hồng Hạo]]: ''Đệ lục tử viết Bồ Lộ Hổ, vi Duyện vương, thái phó, lĩnh thượng thư tỉnh sự''. Như thế "Bồ Lộ Hổ" là nhầm lẫn với "Ngoa Lỗ Quan". Hoàn Nhan Tông Tuyển được phong tới Duyện quốc vương. "Bồ Lỗ Hổ" là tên Nữ Chân của [[Hoàn Nhan Tông Bàn]], con trai lớn của [[Kim Thái Tông|Hoàn Nhan Ngô Khất Mãi]], chứ không phải là con trai của Hoàn Nhan A Cốt Đả. [[Tam triều bắc minh hội biên]] quyển 18 dẫn "Thần lộc " viết: ''Kế thất sinh nguyên soái nhị thái tử, danh Tông Kiệt, đệ lục tử Tông Tuyển''. Như vậy "Tông Kiệt" chính là nhầm lẫn từ "Tông Vọng".</ref>: Trần vương [[Hoàn Nhan Tông Tuyển]] (完顏宗雋), tên Nữ Chân là Ngoa Lỗ Quan.
** Thẩm vương [[Hoàn Nhan Ngoa Lỗ]] (完顏訛魯).
* [[Tuyên Hiến hoàng hậu (Kim Thái Tổ)|Tuyên Hiến hoàng hậu]] Phó Tán thị (宣獻皇后僕散氏).