Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Beyoncé”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: . → ., tháng Mười một → tháng 11 using AWB |
|||
Dòng 118:
Vào tháng Giêng 2010, Knowles được thực hiện một buổi phỏng vấn cùng ''[[USA Today]]'' và tuyên bố rằng cô sẽ nghỉ ngơi vào năm 2010. Cô nói "đương nhiên tôi sẽ phải nghỉ một chút, để có thể nạp lại năng lượng...Như trong sáu tháng qua tôi đã không đến phòng thu để làm việc. Tôi muốn sống cuộc sống của tôi, và sau đó tôi có thể tìm được nguồn cảm hứng."<ref>{{chú thích báo|last=Gardner |first=Elysa |url=http://www.usatoday.com/life/music/news/2010-01-11-beyonce_N.htm |title=Beyonce is poised to take a well-deserved break in 2010 |work=[[USA Today]] |date = ngày 28 tháng 1 năm 2010 |accessdate = ngày 16 tháng 6 năm 2010}}</ref> Trong thời gian này, chương trình ''[[60 Minutes]]'' đã trình chiếu những hình ảnh khi cô học tại nhà khi vẫn còn bé và cầu nguyện trước mỗi buổi diễn.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.cbsnews.com/stories/2010/01/28/60minutes/main6151266.shtml |title=How Gradual Success Helped Beyoncé |work=CBS News |date=ngày 31 tháng 1 năm 2010 |accessdate = ngày 7 tháng 4 năm 2010}}</ref> Vào tháng Hai 2010, cô kết hợp cùng ca khúc của ca sĩ [[Lady Gaga]], "[[Telephone (bài hát)|Telephone]]". Ca khúc vươn lên vị trí quán quân ở bảng xếp hạng [[Mainstream Top 40 (Pop Songs)|Pop Songs]] tại Mĩ, trở thành ca khúc quán quân thứ sáu của Knowles và Gaga. Nhờ thế mà họ đã đánh [[Mariah Carey]] cho ca khúc quán quân nhiều nhất trên các bảng xếp hạng kể từ khi xuất hiện Bảng xếp hạng 40 ca khúc của [[Nielsen Broadcast Data Systems|Nielsen BDS-based]] trên các đài phát thanh năm 1992.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/news/lady-gaga-beyonce-match-mariah-s-record-1004075160.story|title=Lady Gaga, Beyoncé Match Mariah's Record |date = ngày 15 tháng 3 năm 2010 |accessdate = ngày 18 tháng 3 năm 2010 |work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|last=Trust|first=Gary}}</ref> Ca khúc nhận được đề cử giải [[Giải Grammy|Grammy]] cho [[Grammy Award for Best Pop Collaboration with Vocals|Best Pop Collaboration with Vocals]] tại giải [[giải Grammy lần thứ 53|53rd Grammy Awards]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.usatoday.com/life/music/awards/grammys/2010-12-01-grammy-nominations-list_N.htm?loc=interstitialskip|title=2010 Grammy Award Nominations|work=USA Today |accessdate = ngày 2 tháng 12 năm 2010}}</ref>
Vào tháng
Bên cạnh đó, Knowles cho biết cô sẽ trở lại với sự nghiệp điện ảnh trong bộ phim làm lại từ ''[[A Star Is Born (Phim năm 2012)|A Star Is Born]]'', người sẽ đạo diễn và sản xuất là [[Clint Eastwood]] cùng hãng [[Warner Bros.]] Bộ phim được làm lại từ [[A Star Is Born (Phim năm 1976)|Bản năm 1976]] của [[Barbra Streisand]] và [[Kris Kristofferson]].<ref>{{chú thích web|last=Warner |first=Kara |url=http://www.mtv.com/news/articles/1656365/beyonce-star-clint-eastwoods-star-born-remake.jhtml |title=Beyonce To Star In Clint Eastwood's 'A Star Is Born' Remake |work=MTV News |publisher=MTV Networks |date = ngày 20 tháng 1 năm 2011 |accessdate = ngày 21 tháng 1 năm 2011}}</ref> Vào tháng Hai 2011, một nguồn tin đã khẳng định Knowles sẽ biểu diễn tại [[Glastonbury Festival]] 2011, cô sẽ trình diễn các tiết mục gồm 90 phút tại sân khấu vào ngày 26 tháng Sáu, 2011.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.prnewswire.com/news-releases/beyonce-to-headline-glastonbury-festival-115756999.html |title=Beyonce to Headline Glastonbury Festival – NEW YORK, Feb. 10, 2011 |work=[[PR Newswire]] |publisher=PR Newswire Association LLC. |date = ngày 10 tháng 2 năm 2011 |accessdate = ngày 12 tháng 2 năm 2011}}</ref> Cô cùng sẽ trình diễn tại [[Oxegen|Oxegen Festival]] ở Ireland, và [[T in the Park]] Festival ở Scotland vào tháng Bảy 2011.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/uk-northern-ireland-13294152 |title=BBC News - Beyonce to play Oxegen festival at Punchestown |publisher=[[BBC|BBC News]] |date=ngày 5 tháng 5 năm 2011 |accessdate=ngày 5 tháng 5 năm 2011}}</ref> Trong một vài tài liệu cho biết cô đã nhận 1 triệu đô-la từ [[Muammar al-Gaddafi|Muammar Gaddafi]] trong gia đình tổng thống Libya trong các buổi diễn.<ref>{{chú thích web|last=Knopper |first=Steve |url=http://www.rollingstone.com/music/news/industry-lashes-out-at-mariah-beyonce-and-others-who-played-for-qaddafis-family-20110225 |title=Industry Lashes out at Mariah Carey, Beyonce and Others Who Played For Qaddafis Fammily |work=Rolling Stones |date = ngày 25 tháng 2 năm 2011 |archiveurl=http://www.webcitation.org/5wwRIStQE |archivedate = ngày 5 tháng 3 năm 2011 |accessdate = ngày 5 tháng 3 năm 2011}}</ref> Sau đó, một người đã tiết lộ Knowles đã gửi tiền số tiền ấy ủng hộ cho quỹ [[Clinton Bush Haiti Fund]], để trợ giúp cho các đồng bào [[Động đất Haiti 2010]].<ref>{{chú thích báo|last=Kaufman |first=Gil |url=http://www.mtv.com/news/articles/1659097/beyonce-gadhafi-donation.jhtml |title=Beyonce Donated Gadhafi Money To Haiti Relief Last Year |work=MTV News |publisher=MTV Networks |date = ngày 3 tháng 3 năm 2011 |accessdate = ngày 5 tháng 3 năm 2011}}</ref> Vào 28 tháng Ba, 2011, các thông tin đã tuyên bố rằng Knowles đã không còn được quản lý bởi cha cô Mathew Knowles, vì một số lý do cá nhân chưa tiết lộ.<ref>{{chú thích web|url=http://www.rap-up.com/2011/03/28/beyonce-cuts-management-ties-with-father/ |title=Beyonce Cuts Management Ties with Father |publisher=Rap-Up |date = ngày 28 tháng 3 năm 2011 |accessdate = ngày 29 tháng 3 năm 2011}}</ref>
Hiện nay Beyoncé cũng là một danh ca thành công nhất trong dòng nhạc Pop
[[Tập tin:Beyonce - Montreal 2013 (3) crop.jpg|trái|nhỏ|Beyoncé tại [[The Mrs. Carter Show World Tour]]]]
Hàng 134 ⟶ 133:
===2016: ''Lemonade''===
Ngày 6 tháng 2 năm 2016, Beyoncé phát hành "[[Formation]]", được coi là đĩa đơn mở đường cho album trực quan thứ hai [[Lemonade (album của Beyoncé)|''Lemonade'']]. Sau đó một ngày, cô đã trình diễn ca khúc lần đầu tiên tại [[Super Bowl 50|Super Bowl 50 Halftime Show]] cùng với [[Coldplay]] và [[Bruno Mars]].
Ngày 23 tháng 4 năm 2016, ''Lemonade'' được phát hành
''[[Lemonade (album của Beyoncé)|Lemonade]]'' ra mắt tại vị trí số một trên bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]], với 485.000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu phát hành (653.000 bản sau khi kết hợp với lượng nghe trực tuyến và các giao dịch trực tuyến liên quan đến bài hát trong album), trở thành album quán quân thứ sáu của Beyoncé tại Hoa Kỳ cũng như giúp cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử bảng xếp hạng đạt được thành tích này. Ngoài ra, trong cùng một tuần, Beyoncé đã trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên có nhiều bài hát lọt vào bảng xếp hạng [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]] cùng lúc nhất với cả 12 bài trong album. Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2016, Beyoncé thực hiện chuyến lưu diễn [[Formation World Tour|The Formation World Tour]] xuyên qua các quốc gia tại Bắc Mỹ và châu Âu để quảng bá album. Chuyến lưu diễn đạt thành công lớn về mặt thương mại khi thu về 256 triệu đô-la Mỹ, lọt vào danh sách doanh thu cao nhất mọi thời đại.<ref>{{cite web|last1=Weddell|first1=Ray|title=Beyonce's Formation Tour Sold Over 2 Million Tickets and Made Over $250 Million|url=http://www.billboard.com/articles/business/7541993/beyonce-formation-tour-2-million-tickets-250-million-dollars|website=Billboard|publisher=Billboard|accessdate=14 October 2016}}</ref> Tại [[Giải Grammy lần thứ 59]], Beyoncé nhận 9 đề cử, bao gồm "Album của năm" cho ''Lemonade'', "Thu âm của năm" và "Bài hát của năm" cho "Formation".
|