Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cú đại bàng Á Âu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: AlphamaEditor, thêm thể loại, Excuted time: 00:00:12.0939288
n replaced: tháng mười một → tháng 11 using AWB
Dòng 43:
Cú đại bàng thường làm tổ trên những gờ vách đá, đường nứt và hang động. Đôi khi, chúng cũng có thể chiếm một tổ của một loài chim lớn như [[Quạ thường|quạ đen]] (Corvus Corax) hoặc đại bàng vàng. Sự sinh sản thường bắt đầu vào cuối mùa đông, đôi khi muộn hơn. Con mái đẻ từ 1-6 trứng trong khoảng 3 ngày và ấp trứng một mình, bắt đầu từ quả trứng đầu tiên trong 30-36 ngày. Trong suốt thời gian này con mái được con trống cung cấp thức ăn tại tổ.<ref name= Konig />
 
Chim non mở mắt vào khoảng 2 ngày tuổi và được ấp trong khoảng 2 tuần. Con mái ở lại với con non tại tổ trong 4-5 tuần. Trong 2-3 tuần đầu tiên con trống mang thức ăn đến tổ hoặc để nó ở gần, và con mái mớm những miếng thức ăn nhỏ cho con non, hoặc con trống cho con non ăn trực tiếp. Sau 3 tuần chim non bắt đầu tự ăn được và bắt đầu nuốt những con mồi nhỏ. Sau 5 tuần con non có thể đi lại xung quanh khu vực làm tổ, và sau 52 ngày có thể bay vài mét. Chúng có thể rời khỏi tổ trên mặt đất sớm khi được 22-25 ngày tuổi, trong khi ở tổ trên cao là từ 5-7 tuần tuổi. Con non được chăm sóc bởi cả chim bố lẫn chim mẹ trong khoảng 20-24 tuần. Chúng trở thành độc lập vào giữa tháng chín và tháng mười một11 ở châu Âu, và rời khỏi lãnh thổ của cha mẹ (hoặc bị đuổi đi). Tại thời điểm này con trống bắt đầu kiểm tra các vị trí làm tổ tiềm năng trong tương lai. Con non trưởng thành giới tính vào năm sau, nhưng thường không phối giống cho đến khi chúng có thể thiết lập một lãnh thổ vào khoảng 2-3 tuổi.<ref name= Konig />
 
Cú đại bàng có thể sống đến 20 năm trong tự nhiên. Tuy nhiên, như nhiều loài chim khác trong điều kiện nuôi nhốt chúng có thể sống lâu hơn nữa do không cần phải chịu đựng điều kiện tự nhiên khó khăn, và có thể tồn tại tới 60 năm trong sở thú. Con trưởng thành mạnh khỏe bình thường không có kẻ thù tự nhiên và do đó được coi là động vật ăn thịt đỉnh. Nguyên nhân tử vong hàng đầu đối với các loài này là do nhân tạo: Điện giật, tai nạn giao thông và săn bắn.<ref name="owlpages.com" /><ref name= Konig />
Dòng 50:
Có tất cả 13 phân loài,<ref name= Konig /> bao gồm:
*'''''B. b. bubo''''' (Linnaeus, 1758). Phân bố ở châu Âu, từ Pyrenees và Địa Trung Hải, phía đông tới Ukraina, phía bắc tới Scandinavi, Matxcơva và tây bắc nước Nga. Cánh: con trống 435–480mm, con mái 455–500mm; mỏ 45–58mm. Cân nặng: con trống 1550–2800g, con mái 2280–4200 g.
 
*'''''B. b. hispanus''''' (Rothschild & Hartert, 1910). Phân bố ở bán đảo Iberia và có thể vùng cây cối của dãy núi Atlas Mountains ở Algeri và Maroc. Tương tự với phân loài phổ thông (B. b. bubo) nhưng màu nhạt hơn và hơi nhỏ hơn. Cánh: con trống 420–450mm, con mái 445–470mm.
 
*'''''B. b. ruthenus''''' (Zhitkov & Buturlin, 1906). Phân bố ở phía đông của Matxcơva tới sông Ural và phía nam tới cửa sông Volga. Nhạt màu hơn phân loài phổ thông. Cánh: con trống 440–468mm, con mái 471–490mm.
 
*'''''B. b. interpositus''''' (Rothschild & Hartert, 1910). Phân bố ở Bessarabia, Crimea, Caucasus, Tiểu Á, Palestine, Syria và Iran. Sẫm màu hơn phân loài B. b. ruthenus. Cánh: con trống 425–475mm, con mái 440–485mm. Đuôi 240–290mm.
 
*'''''B. b. sibiricus''''' (Gloger, 1833). Phân bố ở Tây Siberia tới trung lưu sông Ob và phía tây dãy núi Altai, phía bắc tới giới hạn của rừng taiga. Màu rất nhạt so với các phân loài khác. Cánh. Cánh: con trống 435–480mm, con mái 472–515mm.
 
*'''''B. b. yenisseensis''''' (Buturlin, 1912). Phân bố ở trung tâm Siberia giữa sông Ob, hồ Baikal, dãy núi Altai và phía bắc Mông Cổ. Sẫm màu hơn phân loài B. b. sibiricus. Cánh: con trống 435–470mm, con mái 473–518mm.
 
*'''''B. b. jakutensis''''' (Buturlin, 1908). Phân bố ở đông bắc Siberia. Sẫm màu hơn phân loài B. b. yenisseensis. Cánh: con trống 455–490mm, con mái 480–503mm.
 
*'''''B. b. ussuriensis''''' (Polyakov, 1915). Phân bố ở đông nam Siberia tới bắc Trung Quốc, Sakhalin và Kuriles. Sẫm màu hơn phân loài B. b. jakutensis. Cánh: con trống 430–475mm, con mái 460–502mm.
 
*'''''B. b. kiautschensis''''' (Reichenow, 1903). Phân bố ở Triều Tiên và Trung Quốc, phía nam tới Tứ Xuyên và Vân Nam. Nhỏ và sẫm màu hơn phân loài B. b. ussuriensis. Cánh: con trống 410–448mm, con mái 440–485mm.
 
*'''''B. b. turcomanus''''' (Eversmann, 1835). Phân bố ở giữa Volga và thượng lưu Ural, bờ biển Caspian và biển Aral Sea, phía đông tới lòng chảoTarim, tới phía tây Mông Cổ. Rất nhạt màu tương tự phân loài B. b. nikolskii và B. b. omissus. Cánh: con trống 440–470mm, con mái 445–512mm.
 
*'''''B. b. omissus''''' (Dementiev, 1932). Phân bố ở Turkmenia và sát ngay Iran, Tân Cương. Dạng sa mạc điển hình. Cánh: con trống 420–450mm, con mái 445–460mm.
 
*'''''B. b. nikolskii''''' (Zarudny, 1905). Phân bố ở Iran tới Pakistan. Nhỏ hơn phân loài B. b. omissus. Cánh: con trống 405–430mm, con mái 410–465mm.
 
*'''''B. b. hemachalana''''' (Hume, 1873). Phân bố ở dãy núi Thiên Sơn tới dãy núi Pamir Mountains, bắc tới Kara Tau, nam tới Balochistan và dãy Himalaya. Cánh: con trống 450–485mm, con mái 470–505mm.