Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thiên hoàng Kōmei”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: othertitles → tước vị khác, Emperor of Japan → Thiên hoàng Nhật Bản (2), image → hình, caption → ghi chú hình, date of birth → sinh, reign → tại vị, coronation → đăng q using AWB
n replaced: Cuôc → Cuộc, ( → (, . → . (2), , → , (4), ; → ; using AWB
Dòng 39:
Thời kỳ thiên hoàng Kōmei lên ngôi đã chứng kiến sự "thúc bách" đòi mở cửa của các nước phương Tây với Nhật Bản, mở đầu là Mỹ. Thập niên 50 của thế kỷ XIX, cách mạng công nghiệp ở Mỹ phát triển mạnh nên công nhân Mỹ làm việc suốt ngày đêm mà không nghỉ ngơi nên họ cần đèn để soi sáng. Để kiếm nguyên liệu cho việc soi đèn, người Mỹ sử dụng tinh dầu (hay dầu cá) của cá voi (có nhiều ở phương Đông) làm nhiên liệu để đốt và thắp đèn. Hơn nữa, Mỹ muốn "mở cửa" Nhật Bản để có chỗ đứng trong con đường buôn bán với Trung Hoa. Chính những nguyên nhân đó đã thúc đẩy Mỹ phải "mở cửa" Nhật Bản. Một nhà văn Herman Melville đã viết: "''Nhật Bản, cái nước đóng kín cửa khóa hai vòng kia, nếu một ngày nào phải tỏ ra hiếu khách, đó cũng là nhờ có những con tàu săn cá voi như chúng ta. Và chuyện như thế đang sắp sửa được thực hiện''"<ref>Guillaume Carré, ''Histoire du Japon'', sđd, tr.930.</ref>.
 
Ngày 7 tháng 8 năm 1853, Tư lệnh hạm đội Đông Ấn Độ của Mỹ là [[Matthew C. Perry]] (1794-1858) dẫn 4 chiếc thuyền có trang bị đại pháo đến thành phố cảng Uraga trao cho chính quyền quốc thư của Tổng thống Mỹ [[Millard Fillmore]] ( 1800-1874, tổng thống thứ 13, tại chức 1850-53) đòi Nhật phải mở cửa thông thương. Trước đe dọa này, Mạc phủ dùng kế hoãn binh, hẹn Perry năm sau sẽ trả lời. Perry vừa rút đi thì lập tức Đề đốc Putyaacutetin (Evfmij Vasalievich, 1803-1883) <ref>G. Carré phiên âm kiểu Pháp là Efim Alexeivitch Poutiatine. (tr 930).</ref> đến Nagasaki và cũng đưa ra đòi hỏi tương tự như của Perry.
 
Trước tình hình ấy, Mạc phủ lúng túng không biết phải giải quyết như thế nào. Viên rōjū shuza (Lão trung thủ tọa, tương đương Thủ tướng Nhật lúc đó) là [[Abe Masahiro]] (1843 - 1855<ref>Masahiro sau khi ký điều ước Kanagawa đã bị các daimyo tozama phản đối vì ông thân thiện với người nước ngoài và bị cách chức vào tháng 9/1855. Kế nhiệm ông là Hotta Masayoshi (tháng 10/1855). Xem: Bolitho, Harold .(1974). ''Treasures Among Men: The Fudai Daimyo in Tokugawa Japan''. New Haven: Yale University Press. <nowiki>ISBN 978-0-300-01655-0</nowiki> ; OCLC 185685588</ref>) tiến hành cuộc trưng cầu ý kiến xem ý kiến của các tầng lớp nhân dân Nhật Bản như thế nào. Trong số 61 ý kiến từ gần 400 bức thư trả lời của daimyo, cận thần của Shogun, nho gia thì có 26 ý kiến (chung) là nhượng bộ và chấp nhận đòi hỏi của Mỹ, 14 ý kiến mơ hồ và một số ý kiến khác không rõ rệt<ref>Beasley, William G (1972). ''The Meiji Restoration'' . <nowiki>ISBN 0804708150</nowiki> : Stamford University Press, p.90 - 95</ref>.
 
Ngày 13/02/1854, Perry trở lại Nhật với 7 chiếc thuyền xâm nhập vào sâu trong vịnh Edo, có ý dùng võ lực thật sự nếu thương thuyết không xong. Sau khi đặt chân lên Yokohama, thái độ của Perry trước sau vẫn cứng rắn tuy lời lẽ trong công hàm ngoại giao của Tổng thống Fillmore rất lịch sự. Masahiro ở thế quá kẹt đành phải chấp thuận đòi hỏi mở cửa hải khẩu của Mỹ. Ông cử Hayashi Akira làm đại diện của Nhật, ký với Perry bản Điều ước Kanagawa (31 tháng 3 năm 1854)<ref>WG Beasley (1972), ''The Meiji Restoratio''n, <nowiki>ISBN 0804708150</nowiki> : Stamford University Press. p.90–95.</ref>
Dòng 72:
Tháng 9/1858, Vụ [[thanh trừng Ansei]] (kéo dài đến 1859). Đại lão Naosuke tiến hành thanh trừng 100 người của Mạc phủ phản đối việc ông đưa người khác làm Shogun và hiện thực hóa Hiệp ước thương mại Mỹ - Nhật. Sự kiện này nhen nhóm hận thù của phe tôn vương do Satsuma chủ trương phải ám sát ông để báo thù.
 
Năm 1860, Đại lão Naosuke đã gửi Shinmi Masaoki (Tân Kiến Chính Hưng (新 見 正 興), 1822-1869) làm Đại sứ đầu tiên của Nhật Bản tại Mỹ. Cùng theo ông sang Mỹ là Phó đại sứ Muragaki Norimasa (村 垣 範 正), và Oguri Tadamasa (小 栗 忠順)<ref>Bakumatsu—Meiji Furushashin Chō Aizōhan , p. 21</ref><ref>Sekai wo Mita Bakumatsu-Ishin no Eiyūtachi , pp.30-49</ref>. Đoàn người hộ tống Đại sứ Nhật gồm 72 người, được Tổng thống Mỹ [[James Buchanan]] làm tiệc chiêu đãi tại thủ đô [[Washington, D.C.]] Để tỏ rõ tình hữu nghị với Nhật, Tổng thống Mỹ đã tặng cho phái đoàn Nhật một chiếc đồng hồ vàng khắc chân dung Tổng thống, làm quà gửi tặng Shogun<ref>Bakumatsu—Meiji Furushashin Chō Aizōhan , p. 23</ref>.
 
Tháng 3/1860, nhân sự kiện đại ngục năm Ansei (1858 - 1859), các phiên sĩ Mito liên kết với các phiên sĩ của phiên Satsuma để mưu việc ám sát Ii Naosuke để báo thù. Ngày 3 tháng 3 âm lịch (24/3/1860), nhân lúc các người lính bảo vệ (60 người) của Ii Naosuke không kịp chuẩn bị tuốt kiếm bảo vệ chủ, những kẻ ám sát bắt đầu xuất hiện dưới chân thành Edo (cổng Sakuradamon) chặn kiệu của Ii Naosuke đang tiến vào thành Edo. Theo lời thuật của các nhân chứng, sau một tiếng súng lệnh, những kẻ tập kích gồm 17 ronin của Mito do Arimura Jisaemon (有村次左衛門), một samurai của phiên Satsuma cầm đầu<ref>James Murdoch, ''A history of Japan'', Volume 3 , pp. 697</ref> đã ào ra, tiến sát tới kiệu của Ii Naosuke và đâm vào đó nhiều nhát kiếm. Sau đó họ đã lôi Ii Naosuke người bê bết máu từ trong kiệu ra và chém rơi đầu. Vụ Ii Naosuke bị ám sát được các nhà viết sử gọi là “Cuộc biến loạn ngoài cổng Sakuradamon” (Sakuradamongai no hen).
 
Năm 1861 - 1862, công sứ quán Anh ở Nhật của viên công sứ Anh Sir Rutherford Alcock (1859 - 1864) liên tiếp bị các lãng sĩ của phe tôn nhương (tôn quân) tấn công: năm 1861, các làng sĩ của phiên Mito tấn công công sứ quán Anh làm hai người bị thương. Năm sau (1862), nhóm võ sĩ phiên Chōshū của Takasugi Shinsaku phóng hỏa thiêu rụi công sứ quán.
 
=== CuôcCuộc đấu tranh giữa các phái (Satsuma, Chōshū) nhằm trao trả quyền hành cho Thiên hoàng ===
Trong phái “tôn nhương” (sonjō), bắt đầu có những tiếng nói kêu gọi hãy dẹp bỏ Mạc phủ để xây dựng một chính quyền mới với triều đình là trung tâm. Viên rōjū mới là Andō Nobumasa (1860–1862), người thay thế Ii Naosuke, đã tính đến việc xúc tiến việc kết hợp một cách êm đẹp giữa phái tôn quân với phái theo mạc phủ trong một quá trình gọi là “công vũ hợp thể” (kōbu gattai). Andō dự tính đưa công chúa Chikako kết hôn với Shogun [[Tokugawa Iemochi]], dù bà đã có hứa hôn với hoàng thân Arisugawa no miya Taruhito. Việc này làm cho phái "tôn vương" do Mito, Satsuma và Aidzu nổi giận và liên tiếp đem quân tấn công phái "nhương di" (chống người ngoại quốc, do phiên Chōshū cầm đầu): năm 1862, nhóm phiên sĩ của Mito tập kích đại quan Andō Nobumasa bên ngoài cửa Sakashita thành Edo, nhưng ông chỉ bị thương. Năm 1863 - 1864, sau sự kiện tập kích lữ quán Ikedaya (6/1864), phiên Chōshū phát binh trả đũa Satsuma và Aidzu ở Kyôto vào Satsuma và Aidzu ở Kyôto. Sử gọi là cuộc ''thảo phạt Chōshū lần thứ nhấ''t. Chōshū thất bại, Mạc phủ buộc 3 vị karô (gia lão, trọng thần lãnh đạo chính trị của phiên) phải nhận lấy trách nhiệm gây nên cuộc chiến và mổ bụng tự sát (seppuku). Đầu của họ được gửi về mạc phủ để tạ tội, kết cuộc xem như đã được tha thứ.